Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Nhĩ trong truyện « Bến quê » của
Nguyễn Minh Châu
TRUYỆN VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945
Gợi ý :
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là
cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông là người luôn trăn trở,
tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình đặc biệt
là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến
quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu chuyện
là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội tâm phong phú đầy trải
nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình tượng
nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức tỉnh sự trân trọng những
vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số phận
của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã từng bôn ba, được tiếp
xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới nhưng đến cuối đời
lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt
toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp
ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường
tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái
khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân
đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm
nghiệm một triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra
vùng đất bên kia sông- nơi bến quê quen thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh
chưa một lần đặt chân đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần,
chu đáo của vợ, anh mới nhận ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh
thầm lặng của vợ. Và anh khát khao cháy bỏng được đặt chân một lần lên bến quê
- bờ bãi bên kia sống, cái miền đất thật gần gũi mà bây giờ với anh trở nên xa
lắc.
=> Phải chăng nhà văn đã đặt
nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với cả một
chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận thức về
cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất
thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước
muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng
định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời
người : Con người ta trên đường đời
thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật Nhĩ
a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện
qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi sớm
đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác
chẳng hạn như : Cô Tô - Nguyễn Tuân, hay « Sang thu » của Hữu
Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những
cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật
ấy dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng. :
+ Những bông hoa bằng lăng tím
cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn… để rồi
cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu phải là những
màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự tiêu
biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi
nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ Đặc biệt là anh nhận ra vẻ
đẹp của bến quê - đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông : H/a con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như
rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu như cao hơn : Những tia nắng
sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù
sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những
màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen
thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát
hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. có cảm giác như lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những vẻ đẹp
bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm nghiệm : « Suốt
đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân
trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến » Phải chăng đây là tâm trạng của một con
người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một
đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo,
chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng
còn sống được bao lâu nữa. Anh đang phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn
lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm
nay « cũng chỉ cảm thấy như hôm qua ». Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy
như mình « vừa bay được một nửa vòng trái đất ». Lạc quan, hi vọng
như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người
thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không
nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này « cùng với con lũ nguồn
đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt,
giật mình như bấm đốt ngón tay : « hôm nay đã là ngày mấy rồi em
nhỉ ? ». Trước những lời anh hỏi vợ và sự im lặng của Liên, ta cảm
nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết đến dần với
anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về
tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc
khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở
trường hợp thứ hai.
b. Cảm nhận
của Nhĩ về Liên (vợ anh).
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy
Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của
anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng
của vợ.
- Anh nói với chị Liên : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em
vẫn nín thinh ». Còn Liên đã trả lời : « Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn
có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này »..
- Nhìn vợ bước xuống cầu thang
với tiếng bước chân « rón rén quen
thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm », anh đã
xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe
bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít
khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn.
Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh mới thực sự thấu
hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : « Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ
nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính
nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được
nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này »
- Thật là đau đớn với anh vì
đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng đời còn trẻ với
những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được
suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh
ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã
viết trong truyện ngắn « Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà
Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được
yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im lặng ? Nhưng
dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp của lương tâm bởi
tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức
nhận ấy đã đọng lại trong niềm khát khao
cháy bỏng của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt chân
lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình
dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được bờ sông bên kia ,
với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ « cái
bên kia sông » mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ :
con người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời mà mình
chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái
mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn
đến với cái thế giới mơ ước kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi
trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời
chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy
thật nguyên vẹn, thật dung dị « cả trong những nét tiêu sơ ».
- Thế giới ước mơ ấy chẳng qua
chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ
hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con người ta phải
bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã đến
được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng hiểu được
nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con
trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi
nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và
sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi
biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là
« một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Những hành động, cử chỉ của cậu con trai phải
chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được điều anh
nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận
của riêng anh : « con người ta
trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình »
- Đó là triết lí của một người
đã trải nghiệm « Hoạ chăng chỉ có
anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy
thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên
kia », đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn trẻ vô tình bỏ qua
những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của hai
thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu
được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên
mỗi chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần
trân trọng những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên
ta.
d. Hành động cuối truyện :
- Đây là hình ảnh cuối cùng của
nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc. Tác giả
miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất khác thường của nhân
vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm
thía. ». Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với Nhĩ là một
sự hồi hộp vô biên. Cho nên hai con mắt
của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên « long lanh » một cách
khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng.
Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê
say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng
manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời
người ? Thời gian không thể chờ đợi anh thêm một chuyến đò
khác ! Vì thế anh lấy hết sức « đu
mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền
đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên
thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với
đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy
vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ
ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy
đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh,
vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của
đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã
che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc
anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn
Minh Châu tới tất cả chúng
ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình,
những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt
khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững
của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện
cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn Minh Châu sau năm
1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận thức
chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều
điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai
mà là cho tất cả. Chính những chiêm
nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm của nhân
vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã
được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự
nhiên mà sâu sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh Châu
đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật Nhĩ. Nhà
văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để khắc hoạ tính
cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.
- Từ những « nhận thức đau
đớn và sáng ngời » của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí sâu sắc ở
đời : Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc chùng
chình ». Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá
trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê
hương ».
- Mỗi chúng ta hãy luôn tự ngẫm
về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của mình trong lúc chưa quá muộn.
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment