LÀNG – Kim Lân
TRUYỆN VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả
- Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920
quê ở làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc.
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện
ngắn.
- Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với
nông thôn và người nông dân. Truyện của ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt
nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân
=>Chính
hai đặc điểm trên đã tạo nên thành công của tác giả trong truyện “Làng”.
2.
Hoàn cảnh sáng tác:
-
Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và
đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
3.Truyện
“Làng” có những đặc điểm cần lưu ý sau:
- Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao
trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: tình cảm quê hương đất
nước. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là
đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một
con người, trở thành một nét tâm lý sâu sắc ở nhân vật ông Hai, vì thế nó là
tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân
vật.
-
Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lý, không xây dựng trên các biến cố, sự
kiện bên ngoài mà chủ trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu
tả các diễn biến tâm lý, từ đó làm nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề tác
phẩm.
-
Những biện pháp nghệ thuật chính để miêu tả nhân vật ông Hai - nhân vật chính
của truyện:
+ Miêu tả nội tâm
+ Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
-
Văn bản “làng” đã kết hợp các phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với
miêu tả và biểu cảm. Tự sự là chính vì câu chuyện được triển khai theo hệ thống
các sự việc.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba.
Nó đảm bảo tính khách quan của những cái được kể, gợi cảm giác chân thực cho
người đọc.
- Tình huống cơ bản của truyện là khi ở nơi tản cư lúc nào
cũng da diết nhớ về làng và tự hào về nó thì bỗng nghe được tin làng mình đã
lập tề theo giặc. Chính tình huống ấy đã cho thấy lòng yêu nước và tinh thần
kháng chiến đã bao trùm và chi phối tình cảm quê hương ở ông Hai, đồng thời làm
bộc lộ sâu sắc và cảm động tình yêu làng, yêu nước ở ông.
4. Tóm tắt
Trong kháng chiến, Ông Hai -
người làng chợ Dầu, buộc phải rời làng.
Sống ở nơi tản cư, lòng ông luôn day dứt nhớ về quê hương. Ngày nào ông
cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc tin rồi nghe lỏm
chẳng xót một câu nào về tin tức của làng. Bao nhiêu là tin hay về những chiến
thắng của làng ... ruột gan ông lão cứ múa cả lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ
vui thích.
Tại quán nước đó, ông Hai nghe
tin làng Dầu làm việt gian theo giặc, ông rất khổ tâm và xấu hổ. Về nhà ông nằm
vật ra giường nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau xót và nhục nhã
khôn cùng. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà. Nghe bất cứ ai nói chuyện gì,
ông cũng nơm nớp lo sợ, sợ rằng người ta nói chuyện ấy… Bà chủ nhà đã đuổi khéo
vợ chồng con cái nhà ông. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc: không thể bỏ về
làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, cũng không thể đi đâu khác vì
không đâu người ta chứa người làng chợ Dầu. Ông cảm thấy nhục nhã xấu hổ, chỉ
biết tâm sự với đứa con về nỗi oan ức của mình.
Chỉ khi tin này được cải chính, ông mới vui vẻ và phấn chấn, ông cứ múa cả hai tay lên mà đi khoe với mọi
người: Nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá. Và ông lại tiếp tục sang nhà
bác Thứ để khoe về cái làng của mình.
B. Ph©n
tÝch t¸c phÈm
§Ò bµi: Phân tích tình yêu làng hoà quyện với tình yêu đất nước
của nhân vật ông Hai. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật này của
tác giả.
Kim Lân đã rất hiểu và thể hiện thành công tình cảm
yêu làng quê qua nhân vật ông Hai - một
người nông dân chất phác. Tình yêu làng của ông Hai rất đặc biệt và cách thể
hiện tình yêu ấy cũng rất độc đáo.
1. Tình yêu quê hương của
người nông dân ấy đã bộc lộ khá sâu sắc ở phần đầu truyện:
Suốt cuộc đời ông sống ở quê
hương, gắn bó máu thịt với quê hương vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông Hai phải rời
làng đi tản cư.
- Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ
về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về
cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu
chung của dân tộc.
- Ông tìm nghe tin tức về kháng
chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe
được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao
nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
=> Đó là biểu hiện
tình yêu làng của người nông dân trước thành quả của cách mạng, của làng
quê
2. Tác giả đã đặt nhân vật ông
Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu
nước của ông.
Tình huống ấy là cái tin làng ông
theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư qua vùng
ông.
- Khi nghe
tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão
lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa
tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng
định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin.
Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà
ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước
bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi
hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có
cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn
Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà
ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu điều tự hào về quê
hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm
thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông
cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
- Suốt mấy
ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên
ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy
tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như
người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe
những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là
ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
=> Tác giả
đã diễn tả rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân
vật: nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ
hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái
tin làng mình theo giặc.
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con
người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt,
sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê
hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào... Nhưng
giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình
yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ
tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được
trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông
lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng
chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu
thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có
thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê
hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng
bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về
kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để
đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.
+ Khi tâm sự
với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng
hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất
phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi
đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước
bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách
mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái
lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao
giờ đám đơn sai”.
3. Đến khi
biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui
mừng của ông Hai thật là vô bờ bến:
“ông cứ múa tay lên mà khoe
cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với
người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng
hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây
nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự
của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén
được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà
mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai
thật là sâu sắc và cảm động.
=>Trong
hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập
dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của
mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong
con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
* Nhà văn Kim Lân đã khá thành
công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến,
gắn bó với làng quê như máu thịt. Nhà văn
đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ
chiều sâu tâm trạng. Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua
các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là
nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt
trong tâm trạng nhân vật. Lòng yêu quê hương tha thiết của ông mãi là bài ca
đẹp về một điển hình cho bao người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
C. C©u
hái luyÖn tËp .
Câu 1. Nhan đề
của truyện là “Làng” sao không phải là “Làng Dầu” chẳng hạn. Từ nhan đề của
truyện, em hiều gì về chủ đề của tác phẩm?
Gợi
ý:
a. Nhan đề của truyện là “Làng”
không phải là “Làng Dầu” vì nếu là “làng Dầu” thì vấn đề mà tác giả đề cập tới
chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của tác giả muốn nói
tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi người nông
dân. Bởi thế “làng” là nhan đề hợp lý với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu
chủ đề của truyện: ca ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân
Việt Nam
trong kháng chiến chống Pháp.
Như vây, nhan đề “làng” vừa nói
lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai, đồng thời qua cái riêng ấy,
cũng nói lên được cái chung : tấm lòng
của những người dân quê đất Việt.
Các cách mở đề cho bài:
Cách 1: Tình yêu quê hương đất
nước là một đề tài quen thuộc trong nền văn học hiện đại Việt Nam từ trước đến nay. “Làng” là một
truyện ngắn như vậy. Nhan đề “làng” mang rất nhiều ý nghĩa. Tại sao nhà văn Kim
Lân không đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là “làng chợ Dầu| mà lại đặt
tên là “Làng”?
C2: Mỗi nhan đề tác hẩm đều thể
hiện dụng ý của tác giả. Có những nhan đề rất ngắn…. nhưng cũng có những tựa đề
rất dài. “Làng” là một trong những nhan đề rất đặc biệt mang nhiều ý nghĩa của
nhà văn Kim Lân.
*Những cách dẫn ý:
- Nhà văn KL quả thật đã rất sâu
sắc khi đặt tên cho áng văn xuôi/ những trang viết/ tác phẩm của mình là
“Làng”. Nhan đề ấy vừa bộc lộ tình yêu làng chân thực, sâu sắc của ông Hai,
nhưng cũng qua câu chuyện của ông Hai, nó vừa nói lên tình yêu quê hương thiết
tha, gắn bó của những người dân quê Việt
Nam. Tình yêu làng ấy cũng là yêu CM, yêu kháng chiến.
-Cái riêng đã hoà điệu với cái
chung, tạo cho tác phẩm một ý nghĩa sâu sắc, một sức sống lâu bền trong lòng
độc giả.
Câu
2: Trong “Làng”, Kim Lân có kể về ông
Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị giặc đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường
như vô lý. Ý kiến của em như thế nào? Ghi lại vắn tắt.
Gợi ý:
Trong “Làng”, chi tiết kể về ông
Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn … Mới đọc chi tiết này, ta thấy
dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn thế nó còn gắn với
bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót
xa đau đớn? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe” đó là biểu hiện
của tâm trạng sung sướng, sung sướng đế tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ
không bình thường? Không! Đặt ông Hai trong hoàn cảnh của “Làng” - làng Dầu
đang bị hai tiếng việt gian theo tây - thì ông Hai không vui sướng sao được vì
nhà bị tây đót là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng
chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân
Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế
nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy lại?
Ông đã quên nỗi đau, sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức
mạnh chung của làng quê, đất nước. Thế đấy niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luôn
gắn liền với vận mệnh của Làng Dầu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết
đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quyện trong tình yêu tổ quốc
thật sâu nặng và thiêng liêng.
Câu 4 :
Phân tích đoạn :
-
Thế nhà con ở đâu ?....
-
Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ :
Qua
đoạn đối thoại này, tâm trạng ông Hai có gì đặc biệt ? Điều đó thể hiện
nỗi niềm sâu kín của nhân vật này như thế nào ?
Gợi ý :
- Bộc lộ tình yêu làng, yêu nước
của ông. Những day dứt, trăn trở trong lòng ông, ông như muốn khẳng định tình
yêu làng chợ Dầu và sự trung thành với cách mạng, với kháng chiến.
- Ông hỏi con những câu tưởng rất
vu vơ, bởi đơn giản ông muốn được nghe về làng chợ Dầu, được thấy con trẻ nhắc
đến ngôi làng mà mình yêu quý.
- Khổ tâm vì nhầm tưởng làng mình
theo Tây, nước mắt giàn giụa trên má (tâm trạng đau khổ)
Vì lầm tưởng làng theo giặc ->
cả hai bố con ông đều trả lời khe khẽ, thủ thỉ. Ông Hai xấu hổ cho làng ông,
cho người dân quê ông : « hai bên má…. » chứng tỏ ông rất khổ
tâm.
- Cách thể hiện tình yêu của ông
Hai rất mộc mạc và chân thành. Câu trả lời của đứa con út : « Ủng hộ
cụ HCM muôn năm » hay chính là nỗi lòng của ông ; ông chuyện trò với
con hay đang giãi bày cho vơi bớt nỗ khổ, sự tủi hổ, dằn vặt đang ám ảnh trong
lòng ông suốt mấy hôm nay.
=> Những dòng đối thoại ngắn
gọn, giản dị, sâu sắc, chân quê đã thể hiện được nỗi lòng sâu kín trong lòng
ông Hai Thu.
Câu
5. Trong đoạn trích : « nhìn lũ con …. nhục nhã thế này » ở
truyện ngắn « làng » của Kim Lân đã thể hiện tâm trạng gì của ông Hai
qua các yếu tố độc thoại và độc thoại nội tâm.
- Giới thiệu Kim
Lân và truyện ngắn « làng »
- Trích dẫn :
« chúng nó…. đấy ư » : ông hỏi ai hay tự hỏi chính mình ?
Thủ pháp độc thoại nội tâm như giúp chúng ta chứng kiến những suy nghĩ của ông
Hai :
+ Dấu (….) như diễn
tả những ý nghĩ ngổn ngang trong lòng ông.
+ Ông nói một mình,
ông rít lên một mình như đang mắng mỏ, như những người làng chợ Dầu đang đứng
trước mặt ông.
Câu 6 : Phân tích tâm trạng
nhân vật ông Hai qua đoạn trích sau :
« Này Bác có biết mấy hôm
nay….
-Liệu có thật không hở Bác ?
Hay là chỉ lại…. »
Gợi ý :
« Nó rút…. khủng bố ông
ạ » => tim ông như thắt lại, khi nghe đến tên « chợ Dầu »,
ông quay phắt lại, lắp bắp ». Một cử chỉ xảy ra rất nhanh. Từ « chợ
Dầu » từ miệng người đàn bà tản cư đã khiến cho ông quan tâm. Phải đi tản
cư với ông là một điều khổ tâm, ông muốn ở lại làng chợ Dầu để tham gia kháng
chiến, nhưng vì gánh nặng gia đình, nhà neo người=> sau một thời gian ->
nấn ná ra đi. Ở nơi tản cư, ông luôn nghe ngóng, quan tâm đến tin tức về làng
Chợ Dầu. Cử chỉ quay phắt lại đã cho ta thấy rõ điều đó. Nếu trước đó, ông là
ông Hai vui vẻ, hồ hởi, nghe tin chỉ để là nghe với sự quan tâm bình thản, đủng
đỉnh. Vậy mà giờ đây chỉ nghe tin làng ông bị khủng bố, ông rất lo lắng, sợ hãi
cho làng quê … ông lo đến mức đang nói năng rất điềm tĩnh : « tản cư
cứ tản cư » thì trở nên lắp bắp, luống cuống…. Câu nói lắp bắp, luống
cuống ấy càng thể hiện rõ sự lo lắng, bối rối => Chứng tỏ ông yêu làng, lo
sợ cho làng biết chừng nào.
-Ông quan tâm xem « làng ông
giết được bao nhiêu tây » nhưng vẻ mặt của chị phụ nữ như báo trước điều
mà ông không hề mong muốn : « vẻ đỏng đảnh, cong cớn thể hiện sự khó
chịu, phẫn nộ, phản đối dù chị không
biết ông Hai là người làng chợ Dầu thứ thiệt. => Thể hiện sự bức bối
với những người làng việt gian của chị.Kim Lân đã diễn tả rất mộc mạc tâm trạng
của lão nông, những từ ngữ rất nông dân, thuần phác đã thể hiện rất cụ thể
những cảm xúc tình cảm của ông Hai lúc này.
- Cảm thấy ngợp, khó thở
- Da mặt tê rân rân là sự tủi hổ
nhục nhã, xấu hổ. Người nông dân vốn đơn giản, yêu ghét rõ ràng. CÁch thể hiện
giản dị, Kim Lân với những hiểu biết về những người nông dân thuần phác đã miêu
tả rất chân thực. Tin tức đau xót ấy khiến ông hổ thẹn đến tái tê.
- Một lúc lâu, rặn è è => ông
nói một cách khó khăn, ông cất tiếng hỏi giọng lạc hẳn đi => thể hiện tâm lí
nhân vật phù hợp với xuất thân, bộc lộ suy nghĩ chủ yếu qua hành động, các yếu
tố bên ngoài, lời nói, vẻ mặt, cử chỉ. Giọng lạc hẳn đi bởi những cảm xúc quá
mạnh mẽ, lo âu và cả hổ thẹn.
- Câu hỏi thể hiện sự bán tín,
bán nghi. Ông mong mỏi tin ấy không đúng, chỉ là một sự nhầm lẫn… Ông làm sao
có thể tin được rằng làng chợ Dầu theo Tây, người dân làng ông là Việt gian.
Niềm yêu thương mãnh liệt, sâu nặng của ông làm sao chó thể chấp nhận được điều
ấy.
-« Hay là chỉ
tại…. kết thúc bằng dấu chấm lửng, ông không nói hết câu, có thể bởi
những tin tức mà người phụ nữ tản cư nói rất chính xác, cụ thể. Nhưng cũng có
thể dấu chấm lửng ấy còn cho ta thấy nỗi lo sợ đến tột cùng của ông Hai. Phải
chăng ông Hai ngừng lời vì sau câu hỏi của ông là sự xác nhận làm ông đau xót,
tin tức ấy sẽ được xác nhận 1 lần nữa, ông không muốn nghe, không muốn thấy…
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment