“ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU.
THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945
A. Kiến thức
cần nhớ.
1.Tác
giả
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm
1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mĩ. Từ người lính Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. - Chính Hữu
làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về người lính và chiến tranh, đặc biệt
là những tình cảm cao đẹp của người
lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương đất nước, sự gắn bó giữa tiền
tuyến và hậu phương.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh,
cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
-
Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
năm 2000.
2. Tác phẩm
a) Hoµn c¶nh ra ®êi:
-
Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia
chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công
quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu
Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy,
cũng như những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn.
Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội, họ đã
vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch này, Chính Hữu viết bài
thơ “Đồng chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh. Bài thơ là
kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ, tha thiết
của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông
1947)
-
Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mang
của văn học thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
-
Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống
kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không
nhấn mạnh cái phi thường.
-
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người
lính cách mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ
cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong
thời kì của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn.
(Đó là hai nội dung được đan cài và thống nhất với nhau trong cả bài thơ)
-
Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
3.
Bố cục
- Bài thơ theo thể tự do, có 20 dòng, chia làm hai
đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng
đội, nhưng ở mỗi đoạn, sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ
vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7,17 và 20)
Phần 1: 6 câu thơ đầu: Lý giải về cơ sở của tình đồng chí.
Câu 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ với một từ với dấu chấm than) như một phát
hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính.
Phần 2: 10 câu thơ tiếp theo: Những biểu hiện cụ thể của
tình đồng chí, đồng đội của người lính
+
Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau (Ruộng nương anh gửi
bạn thân cày…… nhớ người ra lính)
+
Đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính (Áo
anh rách vai…. Chân không giầy)
+
Sự lạc quan và tình đồng chí đồng đội đã
giúp người lính vượt qua được những gian khổ, thiếu thốn ấy.
-Phần
3: 3 câu cuối: Biểu tượng giầu chất thơ về
người lính.
B. Phân tích bài thơ.
Đề bài : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy bài
thơ đã diễn tả sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời
kháng chiến.
Dàn ý chi tiết:
I - Mở bài:
Cách 1:
- Chính Hữu
là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
-
Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ
đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình ảnh
-
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về
người lính hay của ông. Bài thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó
thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Cách 2:
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là
hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người
và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác
phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những
người lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và
sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng
chí”, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của
anh bộ đội thời kháng chiến.
II – Thân bài
Chính Hữu viết bài thơ : “Đồng chí” vào đầu năm
1948, khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến
dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo
sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ
Quốc.
1.
Trong
7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu
nặng của những người lính cách mạng
- Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ giã quê
hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lí
tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là những
tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc:
Quê hương
anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể
chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên
gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi
“nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá”.Hình ảnh “quê hương anh”
và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ không
chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ
chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con
mắt của những người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận
dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được
những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn
quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
=> Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối
ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn tả
sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành
niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
- Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trước ngày nhập ngũ, những con
người này vốn “xa lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự
nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau
bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao
động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ về
đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao
cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh
– tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương
đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng
chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên
đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm
vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp
từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong
chiến đấu của người đồng chí.
- Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan
hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của
những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể,
giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay
hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên
kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành
tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả
nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao
gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như
được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính gian khổ. Bao nhiêu yêu
thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình cảm hàm súc
ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính,
đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng
của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội. Hình ảnh
thật giản dị nhưng rất cảm động.
- Từ
trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ « đồng chí ». Từ “đồng
chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn
gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí’ với dấu chấm
cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những
sắc thái biểu cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm
mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy
một khi có cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại được thử thách,
được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng chẳng
còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp
(xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người
cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi
nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ,
mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất
nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn
vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và
khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm
súc.
2.Nhưng
Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình hình
thành tình đồng chí. Trong mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta
về những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Trước hết, đồng chí là sự thấu
hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng
của nhau.
“Ruộng
nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra
lính”
+ Họ là những người lính gác tình
riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn
khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một
sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã tạm
gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên
đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những
tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát
mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã
rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song
dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính nông dân hiền lành chân thật
ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu
rằng những người lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy
càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm nhận được tính nhớ
nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá
này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp
người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc
đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê
hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa người chiến sĩ
và quê hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi
nên hai tâm tình như đang soi rọi vào
nhau đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước,
gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ
thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh
không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ
thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi
tình yêu quê hương đất nước ấy.
- Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ
chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ
hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Là
người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn
cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá:
“áo rách vai, quần tôi vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn
gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ.
Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ
đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi
là “vệ túm”. Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu
nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua vừa trào dâng một niềm
kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc.
-
Cùng hướng
về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh, người lính chia
sẻ cho nhau tình thương yêu ở mức tột cùng. Chi tiết “miệng cười buốt giá”
đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân lạc quan của người chiến sĩ. Rồi
đến cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương
yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía.
Trong buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau hơi ấm,
truyền cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua tất cả, đẩy lùi
gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi lời nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn
lửa tình cảm thân thương! Nhà thơ đã phát hiện rất tinh cái sức mạnh tinh thần
ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông
và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình
cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này.
3.Ba câu thơ
cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền
bức tranh là đêm – “rừng hoang sương muối”gợi ra một cảnh tượng âm u, hoang
vắng và lạnh lẽo. Không chỉ cái giá, cái rét cứ theo đuổi mà còn bao nguy hiểm
đang rình rập người chiến sĩ.
-
Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế, cái tinh
thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau
vững chãi, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa sưởi
ấm họ để họ có sức mạnh vượt qua cái cái gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc
của những người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
-
Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục
kích giặc của
chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở
vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của
người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng
liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực
đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian
khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm
hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất
ngờ của trăng. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo”chia làm hai vế làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, như
nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong bát ngát…gây sự chú ý cho người
đọc. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách
xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là
biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc
quan, cho sự bình yên của cuộc sống. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ
và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng
cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời
vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình tượng thơ nào
vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đầy
bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng
trong lòng người đọc.
4.
Suy nghĩ về tình đồng chí: Như vậy tình đồng chí trong bài thơ là
tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc
chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung. Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững
chắc: sự đồng cảm của những người chiến sĩ vốn xuất thân từ những người nông
dân hiền lành chân thật gắn bó với ruộng đồng. Tình cảm ấy được hình thành trên
cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh
chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí
đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng sâu
nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo rách
vai”, “chân không giầy” vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận
để viết lên những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. tô thắm
thêm trang sử chống Pháp hào hùng của dân tộc.
III - Kết luận:
Bài thơ
“Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ đẹp cao cả thiêng liêng, thơ
mộng. Cấu trúc song hành và đối xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai gương
mặt người chiến sĩ rất trẻ như đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề tư
tưởng: Tình đồng chí gắn bó keo sơn. Chân dung người lính vệ quốc trong những
ngày đầu kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp đẽ qua những vần thơ mộc mạc,
chân tình mà gợi nhiều suy tưởng. Với những đặc điểm đó, bài thơ xứng đáng là
một trong những tác phẩm thi ca xuất sắc về đề tài người lính và chiến tranh
cách mạng của văn học Việt Nam .
C. Một số câu hỏi luyện tập
Câu 1: Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu.
(tham khảo phần 3 của bài phân tích)
Câu hỏi tương tự: Sửa lỗi câu văn sau : Với hình ảnh
« đầu súng trăng treo » đã diễn tả đầy sức gợi cảm mối tình tình đồng chí keo sơn trong bài bài thơ
« đồng chí » được sáng tác năm 1954 sau chiến thắng Việt Bắc.
Triển khai đoạn văn có câu chủ đề
trên.
Câu
2: Phân tích hình ảnh người lính
trong bài thơ “Đồng
chí”
- Bài thơ về tình đồng chí đã cho
ta thấy vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, cụ thể ở đây là anh
bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Hoàn cảnh xuất thân: họ là
những người nông dân nghèo ra đi từ hai miền đất xa nhau: “ nước mặn đồng
chua”, “ đất cầy lên sỏi đá.”
+ Họ ra đi vì nghĩa lớn (hai chữ
“mặc kệ” nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ ...mặc dù vẫn luôn lưu luyến với quê
hương “giếng nước gốc đa....”
+ Họ đã trải qua những gian lao,
thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người, trang phục phong phanh giữa
mùa đông lạnh giá => Những gian khổ càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ đội:
sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá)
+ Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí
đồng đội sâu sắc, thắm thiết
+ Kết tinh hình ảnh người lính và
tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn cuối của bài thơ.
Câu 3.Theo
em, vì sao tác giả đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là
“Đồng chí”?
Đó là tên một tình cảm mới, đặc
biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách mạng và kháng chiến. Đó là cách
xưng hô phổ biến của những người lính, công nhân, cán bộ từ sau Cách mạng. Đó
là biểu tượng của tình cảm cách mạng, của con người cách mạng trong thời đại
mới.
Câu 4: Phân
tích giá trị nghệ thuật của hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hoá trong câu thơ:
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
(Tham khảo
bài tập làm văn)
C©u 5 : 1.Gi¶ sö em ph¶i lµm bµi v¨n ph©n tÝch bµi
th¬ “§ång chÝ”, em h·y xÐt xem phÇn th©n bµi cña bµi lµm cã ®îc tr×nh bµy theo
dµn ý ®¹i c¬ng díi ®©y kh«ng? V× sao? NÕu thÊy dµn ý cha ®óng em h·y söa l¹i
cho hîp lÝ:
a.Ph©n tÝch 7 c©u th¬
®Çu
b. Bµi th¬ nãi lªn
t×nh ®ång chÝ g¾n kÕt nh÷ng ngêi chiÕn sÜ trong mét cuéc chiÕn ®Çu ®Çy gian
khæ
c. Bµi th¬ cßn nªu lªn
mét h×nh ¶nh rÊt ®Ñp vµo mét ®ªm chê giÆc gi÷a rõng trong ®ªm tr¨ng l¹nh
Nhận xét dàn
ý: Không chia theo một căn cứ nhất định: mục a chia theo
bố cục; mục b, c chia theo nội dung.
Mục b chưa
phân tích rõ và sâu ý nghĩa cao đẹp của tình đồng chí trong 10 câu thơ.
Mục c lạc ý,
mang nặng tả cảnh, chưa xoay quanh vấn đề về tình đồng chí.
Sửa lại dàn
ý:
a.Bảy câu đầu: sự lí giải về tình đồng chí.
b.Mười câu tiếp theo: là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí.
c.Ba câu cuối cùng: biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ của tình đồng chí.
Câu 6. Phân
tích bài thơ để thấy rõ chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu với rất
nhiều dáng vẻ:
Chủ đề đồng chí hiện lên trong
thơ Chính Hữu với rất nhiều dáng vẻ. “Anh với tôi” khi thì riêng rẽ trong từng
dòng thơ để nói về cảnh ngộ của nhau: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng
tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”; khi lại chen lên đứng vào cùng một dòng: “Anh
với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Từ riêng lẻ đã
nhập thành “đôi”, thành chung khăng khít khó tách rời: “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu”/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Đây là những hình ảnh đầy ắp kỉ
niệm và ấm áp tình đồng chí. Câu thơ đang từ trải dài, bỗng cô đọng lại thành
hai tiếng “Đồng chí!” vang lên thiết tha, ấm áp, xúc động như tiếng gọi của
đồng đội và nó khắc ghi trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó.
Tình đồng chí là cùng giai cấp, cùng nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời
sống: “âo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân
không giày”. Trong buốt giá gian lao, các anh chuyền cho nhau hơi ấm tình đồng
đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những bàn tay không lời mà nói được tất
cả, các anh sát cánh bên nhau để cùng đi tới một chiều cao: “Đêm nay rừng hoang
sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo”. Cùng chung
chiến hào, cùng chung sống chết, đó chính là biểu hiện cao đẹp nhất của tình
đồng chí. Chính tình đồng chí đã khiến các anh ngay giữa nguy hiểm gian lao vẫn
thấy tâm hồn thanh thản và lãng mạn. Và đó cũng chính là tình cảm xã hội thiêng
liêng nhất, là cội nguồn của tình yêu nước, của sức mạnh con người Việt Nam
Câu 7: Viết
đoạn văn quy nạp (15 câu) :
Tám
câu thơ (Đồng chí – Chính Hữu) đã nói thật giản dị những thiếu thốn của cuộc
kháng chiến. Và tình đồng đội đầy mến thương đã tiếp thêm sức mạnh giúp họ vượt
qua mọi thử thách.
Gợi ý :
- 5
câu đầu : những câu thơ dung dị nói về những gian khổ của người
lính : người nông dân mặc áo lính giản dị, nghèo khó…áo rách, quần vá…
hình ảnh thơ giản dị như đời sống.
-
Nói đến những thiếu thốn của người chiến sĩ nhưng ở những câu thơ tiếp theo, ta
thấy những thiếu thốn ấy đâu chỉ tồn tại riêng rẽ với hai cá thể anh và tôi mà
đã hoà nhập yêu thương gắn bó. Nụ cười buốt giá, cái cười lạc quan, xua đi cái
lạnh giá … nụ cười của những con người như đang cố gắng vượt qua cái rét buốt
ruột buốt gan ấy. Hình ảnh thơ vừa tô
đậm những gian nan, thiếu thốn, vừa thể hiện nghị lực vượt qua mọi khó khăn của
những anh lính vệ trọc (sốt rét - rụng tóc) =>Những câu thơ được viết theo
thể thơ tự do rất dung dị với những hình ảnh thơ chân thực càng giúp ta thêm
hiểu về cuộc chiến tranh đã qua, những vất vả mà người lính đã nếm trải, vừa
cảm phục quá khứ hào hùng….
-
Đến câu cuối khổ, nhịp thơ thay đổi, dài ra trầm lắng, âm điệu câu thơ lan toả
như bộc lộ tình cảm. Đây có thể là hình ảnh cảm động nhất của bài, từ
« thương nhau » đứng ở đầu câu như bộc lộ tình yêu da diết, sâu nặng
của những con người cùng lí tưởng chiến đấu, họ nắm lấy bàn tay nhau như truyền
cho nhau hơi ấm….Chân không giầy giữa vùng rừng núi gập ghềnh, hiểm trở .
Áo rách, quần vá giữa cái lạnh cắt da cắt thịt, tình đồng chí đã giúp họ vượt
qua tất cả : « thương nhau tay nắm lấy bàn tay » => Tình đồng
đội và tình người ấy cũng là sức mạnh chiến thắng.
- 3
câu thơ cuối cùng kết lại trong
một hình ảnh đẹp, lãng mạn đến bất ngờ, thú vị bằng hai âm bằng :
« Đầu súng trăng treo ». Âm
điệu câu thơ như ngân vang, câu thơ như mở ra, ánh trăng như soi sáng khắp núi
rừng. Phải chăng chính tình đồng chí, đồng đội đã đem lại cho họ những khoảng
lặng hiếm hoi trong đời lính gian nan.
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment