THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH
CÁ - HUY CẬN
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả:
- Huy Cận bút danh là
Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội.
- Huy Cận là một cây
bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”.
- Ông tham gia cách
mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách
trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ
hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945.
-
Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên
nhiên, vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét
đẹp riêng.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào
năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào hứng, phấn chấn,
tin tưởng bao trùm trong đời sống xã hội
và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nước. Chuyến
thâm nhập thực tế ở vùng mở Quảng Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy
Cận thấy rõ và sống trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp phần quan
trọng mở ra một chặng đường mới trong thơ Huy Cận.
b. Bố cục:
3 đoạn
+ Đoạn 1:
Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức
của người đi biển.
+ Đoạn2 :
4 khổ tiếp: Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh bắt cá giữa không gian biển trời
ban đêm.
+ Đoạn 3:
khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh lên.
- Trong
bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng lãng
mạn tràn đầy niềm vui hào hứng về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là một nét nổi
bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ,
lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ này.
c. Nội
dung:
- Bài thơ
thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui,
niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
d. Nghệ
thuật.
- Nhiều
hình ảnh thơ đẹp, tráng lệ.
- Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, độc đáo.
- Âm
hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
Có thể bạn quan tâm
=> Top 10 cuốn sách hữu ích giúp ôn thi vào lớp 10 môn Toán
=> Top 10 cuốn sách hữu ích giúp ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
Có thể bạn quan tâm
=> Top 10 cuốn sách hữu ích giúp ôn thi vào lớp 10 môn Toán
=> Top 10 cuốn sách hữu ích giúp ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
B.
Phân tích bài thơ.
1. Hai
khổ đầu.
a) Khæ th¬
®Çu:
- Cảnh hoàng hôn
trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo:
Mặt
trời xuống biển như hòn lửa
Sóng
đã cài then đêm sập cửa”
+ Với
sự liên tưởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời
khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần
thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ
với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc
then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà
thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhậy cảm.
- Khi
thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
+ Màn
đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như
chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn
thuyền đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối
lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một
quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng
hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục
mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu
trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc
lao động không ít vất vả.
+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng
gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh
buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao động lạc
quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giầu
cho Tổ quốc.
b) Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm
nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài:
Hát
rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá
thu biển đông như đoàn thoi
Đêm
ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến
dệt lưới ta đoàn cá ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển
cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong muốn công việc đánh cá thu được kết quả
tốt đẹp.
2. Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả
đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con người rất yêu lao
động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên
biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng
nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những
yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ
trung, khỏe mạnh và yêu đời.
a.Biển
rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng. Trên mặt biển đó, có
một con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả
bao la giờ đây đã trở thành một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái,
còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng
biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Tư thế và khí
thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của
biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa
nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ
loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước
cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và con người có tâm hồn cũng
thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở
thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên
b. Biển
giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng
cách liệt kê tên các loài cá và tập trung miêu tả màu sắc của chúng trong đêm
trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng
nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi
em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước,
những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh tế
mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị
làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh
nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở
của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được
cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của
đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy
nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến
cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.
c.Biển không
những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ.
Biển cho con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca
gọi cá vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Không phải
con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng
sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn
thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn
đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã
cùng với con người hòa đồng trong lao động.
-
Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự
buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa thơ
mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
d.Một đêm trôi đi thật nhanh trong
nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:
Sao
mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta
kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy
bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới
xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi
bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những
bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân
trời bắt đầu bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh
sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng,
tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa
sự lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ
niềm vui với ánh bình minh.
3. Hai khæ th¬ cuèi lµ
hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu
hát căng buồm với gió khơi
Đoàn
thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt
trời đội biển nhô màu mới
Mắt
cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng
hôn trong tiếng hát và trở về vào lúc bình minh cũng trong tiếng hát. Những câu
thơ được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca lao động. Nếu như tiếng hát
lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn
khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ trở về trong tư thế
mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ,
sức lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được nhân hóa, cả mặt trời
cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con người đã chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra
một cảnh tượng thật kì vĩ và chói lọi. Phải nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi
miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên trên sóng nước xanh lam
, chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng và còn đẹp hơn với kết quả lao
động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt
trời giống như muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp,
huy hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.
Kết luận
“Đoàn thuyền
đánh cá” là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn ngập
niềm vui phơi phới, niềm say sưa hào hứng và những ước mơ bay bổng của con
người muốn chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình. Đây cũng là
bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên đất nước qua
cái nhìn và tâm trạng hứng khởi của nhà thơ. Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ
trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại
phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây
giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi một số bài thơ khác cùng viết về đề tài
này đã rơi vào quên lãng.
C. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu hoặc khổ thơ
cuối bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. (Tham khảo
bài tập làm văn trên)
Câu 2: Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng
lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động. Em hãy
chọn và phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1,3,4, 7. Bút pháp
xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật?
Gợi ý:
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp,
tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động được vẽ
bằng bút pháp vừa tả thực, vừa ẩn dụ, tượng trưng với cảm hứng lãng mạn.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra
khơi khi mặt trời lặn (khổ 1- cảnh biển về đêm)
+ Cảnh vừa rộng lớn lại vừa gần
gũi với con người do một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ:
“Mặt
trời xuống biển như hòn lửa
Sóng
đã cài then đêm sập cửa”
Chi tiết “mặt trời xuống biển”
có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá
ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng tây nam thường chỉ thấy
cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển.
Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra
biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng
biển thì vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển. Từ những quan sát thực, sức
tưởng tượng và liên tưởng của nhà thơ đã bồi đắp và tạo nên một hệ thống hình
ảnh vừa gần gũi vừa mới mẻ: vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông
xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là then cửa... như mọi ngôi nhà
thân thuộc của mỗi người.
+ Tác giả đã tạo ra một hình
ảnh khoẻ, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi
và câu hát của người đánh cá “câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm
vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng
với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc
đánh cá không ít khó khăn vất vả. Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của
những con người yêu nghề, yêu biển.
- Trong phần thứ hai của bài
thơ nổi bật là những bức tranh đẹp, rộng lớn, lộng lẫy, kế tiếp nhau về thiên
nhiên vùng biển và tư thế của con người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ. .
+ Cảm hứng lãng mạn khiến nhà
thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi
phới, khoẻ khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình.
“Thuyền
ta lái gió với buồm trăng
Lướt
giữa mây cao với biển bằng
Ra
đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn
đan thế trận lưới vây giăng.
+ H/a con thuyền được miêu tả
rất lãng mạn. Có thực đấy nhưng lại lẫn vào trong ảo. Với sự tưởng tượng bay
bổng, thuyền có người cầm lái là gió trời, cánh buồm là trăng trời. Thuyền và
người hoà nhập vào thiên nhiên, lâng lâng trong cái thơ mộng của gió, trăng,
trời, biển. Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh con người lớn ngang tầm vũ
trụ và chan hoà với khung cảnh trời nước bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh cá do
đó bỗng nhiên trở nên rất thơ mộng.
+ Nhưng đây không phải là cuộc
du ngoạn bằng thuyền. Đây là một cuộc chiến đấu thực sự để giành lấy từ bàn tay
thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con
người: “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Ta
hát bài ca gọi cá vào
Gõ
thuyền đã có nhịp trăng cao
-
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta
kéo xoăn tay chùm cá nặng.
- Cứ như thế, bút pháp lãng mạn
và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của
biển trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.
- Cá
thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm
ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá
song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái
đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm
thở sao lùa nước Hạ Long
-
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
-
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Những đoàn cá thu dày đặc lướt đi trong biển.
Những đàn cá lướt trong sóng nước tạo nên những luồng sáng trắng loang loáng
như dệt biển. Cá vào lưới dày đặc mà tưởng như cá dệt lưới vậy.
+ Cá song đêm xuống thường nổi
lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông. Cá song thường có màu sắc rất sặc
sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những ngọn đuốc đỏ
rực sáng lên giữa đêm trăng sao, vẻ đẹp
hư ảo, lạ kì.
+ Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì
diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc
rực rỡ. Trong đêm sao lung linh, những con cá tươi rói quăng mạnh những chiếc
đuôi vẫy nước làm ánh trăng lấp lánh “vàng choé” sáng lên giữa biển đêm. Rồi
cái nhịp thở của vũ trụ về đêm: nhịp thuỷ triều lên xuống và những con sóng dập
dờn, bầu trời đêm chi chít sao chiếu xuống mặt biển, nhà thơ cảm nhận như là
“sao lùa nước Hạ Long”.
+ Khi những mẻ lưới nặng trĩu
được những bắp tay cuồn cuộn săn chắc kéo lên khỏi mặt nước. Những con cá nhảy
nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với
ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức tranh có những gam màu
tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ: “vảy bạc..... nắng hồng”
=> Những hình ảnh này có vẻ
đẹp của tranh sơn màu lung lính, huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng
tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì
diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng , điều đó đã chắp cánh cho
hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.
Câu 3: Viết đoạn văn: Khổ 2,3,4 của bài thơ “Đoàn thuyền đánh
cá” đã miêu tả cảnh biển đẹp, biển giàu (tương tự
câu trên)
Tham khảo
đoạn văn:
Cả bài thơ
là một khúc ca, nhưng đó không chỉ là khúc ca lao động mà còn là tiếng hát ngợi
ca thiên nhiên, ngợi ca biển cả giàu đẹp của quê hương. Thật vậy, thiên nhiên
trong bài thơ đẹp như một bức tranh sơn mài lóng lánh một sắc màu rực rỡ, cảnh
biển trời được giới thiệu một cách tài tình, sống động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Một mặt trời
đỏ ối đang từ từ chìm xuống biển khơi ở mút tận chân trời. Ngôi nhà vũ trụ đã
vào đêm với “sóng cài then”, “đêm sập cửa”. Nghệ thuật nhân hoá và so sánh được
sử dụng thật tài tình. Đọc hai câu thơ, ta cứ tưởng là vũ trụ đã vào thời khắc
nghỉ ngơi. Không đâu, vũ trụ hay thiên nhiên vẫn đang chuyển động không ngừng.
Cảnh lúc này lại gắn liền với người: “Thuyền” càng lướt ra xa thì biển càng
mênh mông:
“Thuyền ta
lái gió với buồm trăng.
Lướt giữa
mây cao với biển bằng”
Mây cao -
biển bằng bàng bạc ánh trăng. Cánh buồm no gió, cong cong như vầng trăng khuyết
- một nửa vầng trăng, hình ảnh thực đẹp mà lãng mạn, nên thơ. Hình ảnh “mây
cao, biển bằng” mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt, bát ngát.
Hình ảnh con thuyền hay con người trong không gian ấy càng lớn lao, kì vĩ.
“lướt”nhanh, nhẹ, cảm tưởng như đang bay trên không trung. Tư thế, tầm vóc ấy
trong cảm xúc bay bổng, thăng hoa của Huy Cận, hay là trong niềm vui, trong sự
hào hứng của người người dân chài khi ra khơi. Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và
trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển
trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển. - Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm
ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá
song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái
đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm
thở sao lùa nước Hạ Long
-
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
-
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Tôn lên vẻ
đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá
với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong những câu chuyện cổ
tích vừa thực, vừa ảo. Những con cá nhảy nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu
ánh sáng những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình
minh khiến cho bức tranh có những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. Vẻ đẹp
của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo.Không gian huyền thoại; bầu trời,
biển đêm, sao, trăng, những nàng tiên cá… tất cả gợi nên vẻ đẹp kì ảo, đúng là
vẻ đẹp trong cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ giàu xúc cảm.
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của
em về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
Gợi ý:
Thiên nhiên vùng biển trong bài thơ có một vẻ đẹp riêng. Bầu trời giống
như ngôi nhà vũ trụ khi đêm xuống cũng cài then, sập cửa để chuẩn bị nghỉ ngơi.
Có trăng, có gió, biển lặng, những bầy cá dệt biển như muôn luồng sáng. Mặt
trời lên làm cho biển thêm màu sắc mới. Những thuyền đầy ắp cá nối nhau thành
muôn dặm khơi mắt cá huy hoàng. Con người làm chủ nên vui vẻ ca hát suốt từ khi
ra khơi, trong quá trình buông lưới và trở về. Con người hoà hợp với thiên
nhiên. Gió lái thuyền, trăng như dát vàng trên những cánh buồm. Người đánh cá
thì hát bài ca gọi cá vào… Không khí lao động thật khoẻ khoắn. Từng chùm cá
nặng được kéo lên trong tiếng hát của những con người chạy đua cùng mặt trời.
Vẻ đẹp của thành quả lao động cũng chính là vẻ đẹp của những người lao động
mới, làm ăn tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đời mình.
Câu 5. Trong câu thơ “vẩy
bạc đuôi vàng loé rạng đông”, từ “đông” có nghĩa là gì? Hãy tìm ít nhất 2
nghĩa của từ “đông” và cho ví dụ. Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ gì? Phân
tích? Tìm hai ví dụ cũng sử dụng biện pháp tu từ đó mà em đã được học.
Gợi ý:
-
Từ “đông” có nghĩa là phía đông, biển đông.
-
Hai nghĩa khác nhau của từ “đông”
+ Là
động từ chỉ trạng thái: đông đúc, nhiều
+ Là
động từ chỉ trạng thái: đông cứng
+ Là từ
chỉ phương hướng: hướng đông, phía đông
VD:
Đằng đông, từng đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau về bờ.
-
Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số
lượng cá thu được nhiều đến mức làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền khi ánh nắng
chiếu vào thân cá => thành quả lao động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ
đoàn thuyền cá đó thể hiện ánh sáng sự bội thu “Mùa vàng”.
-
Ví dụ về hai câu thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ.
-
VD: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
VD2:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy
một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu
6: Cho câu chủ đề sau:
Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là
một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bài ca
ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động.
a.
Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? Đề tài
của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì?
b.
Hãy viết tiếp từ 9 đến 15 câu để tạo thành đoạn văn
tổng phân hợp hoàn chỉnh. Trong đó có sử dụng phép thế đồng nghĩa.
Gợi ý:
a.
Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là: ca ngợi vẻ
đẹp của con người lao động.
Đề tài
của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là: Đoàn thuyền đánh cá là một bức
tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên.
b.
Viết đoạn:
-
Tư thế ra đi: hoàn cảnh khắc nghiệt>< tư thế
hiên ngang, họ mang đến cho biển khơi một nhịp điệu mới: tiếng hát say mê lao
động.
-
Tư thế lao
động trên biển cả bao la: lao động trên biển không hề cô đơn, tầm vóc của họ
sánh vai với đất trời, bởi thiên nhiên bầu bạn, chia sẻ với họ….(phân tích để
thấy được sự hoà hợp giữa con người và vũ trụ)
-
Tạo nên khúc men say ca ngợi con cho con người lao
động -> tạo thành quả lao động mà họ mong muốn.
-
Nhà thơ dùng hình ảnh rất thực: “ta kéo xoăn tay
chùm cá nặng” -> Thành quả lao động: Họ ra về với thuyền đầy ắp dường như
ánh bình minh thắp lên từ vảy cá. Họ mang bình minh cho vùng biển bao la rộng
lớn. Bài thơ là một bản hùng ca về người
lao động.
Câu 7: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật
trong câu thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
Cá song lấp lánh đuốc đen
hồng.
Hãy tìm một ví dụ cũng có sử dụng biện pháp tu từ
nghệ thuật giống như câu thơ trên (trong chương trình đã học)
Gợi ý:
-
Hai câu thơ trên đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê,
ẩn dụ. Hình ảnh những con cá chim, cá đé, cá song là ẩn dụ cho thành quả lao
động mà những người dân chài có được sau một ngày lao động trên biển. Hình ảnh
“lấp lánh đuốc đen hồng” là một hình ảnh đẹp, những chiếc vẩy cá dưới ánh trăng
như lấp lánh.
-
Câu thơ có sử dụng phép liệt kê: VD: Một canh, hai
canh lại ba canh.Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Câu 8: Phân tích
giá trị các biện pháp tu từ trong câu thơ sau:
Biển cho ta cá như lòng mẹ.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Hãy viết 1 đoạn văn phân tích hai câu thơ trên.
Gợi
ý:
Thiên nhiên, biển khơi hùng vĩ luôn là một đề tài
lớn trong thơ ca Việt Nam. Biển đối với mọi người, ngoài vẻ đẹp và sự hùng vĩ,
còn gợi cho chúng ta một cái gì đó bí ẩn, nguy hiểm với những tai hoạ khôn
lường. Nhưng trong con mắt và tình cảm của những người dân chài: “biển như lòng
mẹ”, biển cả đối với ngư dân trở nên thật ấm áp, như người mẹ hiền trở che,
nuôi nấng họ lớn lên, bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thương. Mẹ
biển là nguồn sống của họ, gắn bó sống còn, cho họ tất cả những gì của đời sống
như người mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ như một sự cảm nhận thấm
thía của những người dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó học chợt
nhận ra biển đã gắn bó với mình, thật quý giá thân yêu biết chừng nào.
Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm
đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương
tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài
thơ?
2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau
trong tưởng tượng nhưng Huy Cận lại có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao vậy? Câu
thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên nhiên và tài quan sát của ông?
Gợi
ý:
1) chÐp khor tho cã ý th¬: “Con c¸ song cÇm ®uèc
dÉn th¬ vÒ”
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
2) Nhà thơ có sự liên tưởng hợp lí vì: Cá song đêm
xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông, cá song thường có
màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những
ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao.
- Câu thơ giúp người đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của các
loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi, đó là một vẻ đẹp hư ảo, lạ kì. Trí
tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là
bay bổng, điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giầu thêm cái
đẹp vốn có trong tự nhiên.
C©u 10: Cho khæ
th¬ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
§ây là câu chủ đề cho một đoạn: “Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta
thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương”.
Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh
đoạn văn trên theo phép lập luận diễn dịch (trong đó có một câu ghép và một câu
có thành phần tình thái).
Gợi ý:
Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy
một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương.(1) Thật vậy, tôn
lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá,
mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong những câu
chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo.(2) Những con cá song giống như
ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là
hình ảnh ẩn dụ độc đáo. (3) Có lẽ, “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp
nhất.(4). Ánh trăng in xuống
mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. (5) Vẻ
đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo hơn bởi hình ảnh nhân hoá : “Đêm
thở sao lùa nước Hạ Long”. (6) Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương đang
thở. (7). Phải chăng tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng? (8). Nhưng tưởng tượng của nhà thơ lại được cắt
nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của
đêm. (9 ) Đây một hình ảnh đảo ngược, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến
cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.(10).
Chú thích:
-
Câu 4: sử dụng thành phần tình
thái
-
Câu 5: Sử dụng câu ghép.
Câu 10: Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu:
Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ kết hợp hài hoà với cảm hứng lao động đã
tạo nên những hình ảnh rực rỡ, bay bổng, lãng mạn trong khổ thơ thứ hai và thứ
ba của bài thơ : “Đoàn thuyền đánh cá”. (Đoạn văn có sử dụng câu bị động và câu
có thành phần phụ chú)
Gợi ý:
- Từ “hát” vang lên ở ngay dòng thơ đầu và trong suốt bài thơ như mở đầu
một khúc ca lao động của những người dân chài lưới. Trong câu hát hiện lên hình
ảnh những đoàn cá được miêu tả như đoàn thoi giữa biển Đông lặng. Biển hiền
hoà, đoàn cá phản chiếu ánh sáng khiến cho không gian rộng lớn trở nên rực
sáng.
- Tiếng hát của người dân chai hay lời gọi trìu mến – câu hát của những
con người gắn bó với biển khơi (liên hệ với các tác phẩm nói về mối quan hệ đối
nghịch giữa biển khơi và người dân chài) Nhưng ở đây là mối quan hệ thân
thương, gắn bó.
- Trong khổ thơ tiếp theo, xuất hiện các hình ảnh thiên nhiên gợi không
gian khoáng đạt, bao la, không chỉ được mở ra ở chiều rộng và chiều dài, mà còn
ở cả độ cao và chiều sâu.
- Cảm hứng vũ trụ là một đặc điểm trong thơ Huy Cận, giờ đây khi nhà thơ
đã thực sự gắn bó với thiên nhiên, con người lao động (sáng tác năm 1958 – sau
CMT8 chuyến đi thực tế) thì nó trở nên gắn bó, này nở trong niềm vui của cuộc
sống lao động, không còn trĩu nặng nỗi sầu nhân thế như trước kia.
- Hình ảnh con thuyền hay con người đang điều khiển thiên nhiên. Nhà thơ
đã khắc hoạ vẻ đẹp của con người lái gió – chinh phục thiên nhiên. Con buồn
lướt gió với buồm trăng: con buồm no gió cong cong như vầng trăng khuyết hay
ánh trăng thấm đẫm bao phủ => Dù là hình ảnh nào thì cũng đều thi vị và bay
bổng.
- Con thuyền như bay trong không trung, lướt bay rất nhanh và nhẹ. Hình
ảnh thiên nhiên ấn tượng, chân thực + sự thăng hoa cảm xúc đã đem lại cho bài
thơ vẻ đẹp rất mĩ lệ. Biển cả, vũ trụ bao la nhưng con người không hề bé nhỏ,
đơn độc giữa biển khơi, tầm vóc người ngư dân trở nên lớn lao, khoẻ khoắn.
- Những chuyến ra khơi đánh cá của họ được nhà thơ hình dung như một trận
chiến đấu chinh phục biển khơi… Thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp phổ biến là
4/3 rắn rỏi như càng tô đậm sức mạnh của người dân chài vượt qua những thử
thách, khó khăn.
- Trọng âm của câu thơ dồn ở những thanh trắc, những dấu nặng khiến âm
điệu câu thơ trở nên thật hùng tráng
Có thể bạn quan tâm
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment