BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
PHẠM TIÕn DUẬT.
THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945
1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật
sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm 1964 vào bộ
đội, hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những nhà thơ
tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất
liệu hiện thực, chiến trường, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang tàng,
tinh nghịch, sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trường
Sơn và những khó khăn của thời đánh Mỹ gian khổ.
- Phạm Tiến Duật
thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ qua
những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường
Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng
-Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đường ( 1971), Ở hai đầu núi (1981). Nhiều bài
thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài: Trường Sơn Đông, Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung
phong….
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh.
- Bài
thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là tác phẩm đoạt giải nhất trong
cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).
- Bài thơ được ra
đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng
ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó những
đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước.
b. Nội dung.
- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính,
qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng
cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi
nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng
nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
c. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của
dòng thơ.
- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể
của các yếu tố tự sự. Điều đó tạo nhiều cơ sở để biểu cảm đồng thời tăng sức
phản ánh hiện thực cho thơ.
- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở
chiến trường, cùng với ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, có nét khá đặc biệt gần
với văn xuôi, gần với lời nói bình thường hàng ngày. Nét nổi bật là giọng điệu vui, tinh nghịch,
lạc quan. Nó làm nên chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật nói riêng và thơ chống
Mĩ nói chung.
1969
Bài thơ này trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được tác giả đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa.
Nguồn: Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, 1970
Bài thơ tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
1969
Bài thơ này trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được tác giả đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa.
Nguồn: Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, 1970
B. Phân tích những
nội dung chính của bài thơ.
1. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.
-
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề
ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm
nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là
một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể
hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực dời sống chiến tranh trên
tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài
thơ”? Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác
giả: không phải chỉ viết về những chiếc
xe không kính hay là cái hiện thực khốc
liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của
hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc
nghiệt của chiến tranh.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Trong bài thơ nổi bật lên một
hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường.
-Xưa nay, những hình ảnh xe cộ,
tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và
thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã
bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu”
của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những
chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm
bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm
trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính”
lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy
vẫn chạy băng ra tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải
thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy:
Không có kính không phải vì xe khôg có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc
người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất
thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn
từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó
ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom
rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom”
của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là
nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính.
- Những chiếc xe như vậy vốn
không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang
tàng, tinh nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra đụơc và đưa nó
vào thơ thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Hơn nữa,
viết về những người lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà
làm nổi bật hình ảnh ngưới lái xe.
3. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình
ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn.
- Thiếu
đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lái xe bộc
lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng
dũng cảm, tinh thần bất chấp khó khăn, gian khổ.
a. Trước hết là
tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính
xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên
người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt
đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim”
đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng
lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay
ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và
cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tượng căng
thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư
thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung....
nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt
đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với
điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình
tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng
với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía
trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu
phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên
đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành
niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày
dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
=> Vậy
đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ
lái xe TSơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình
tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền
tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời
thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
b.
Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc quan hồn nhiên,
yêu đời của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về
những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn
ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió,
bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho
miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trước thử
thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm
hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất
cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho
người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi
nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì
ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó
khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi.
Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến
tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa
xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái
độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm
nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”.
Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh
xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió
lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh
thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì
phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi
động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít
chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì
nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.
Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính
thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện
thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa.
Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ
gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của
những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn
tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái
cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp
trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến
thắng và tràn đầy niềm tin.
c. Tình đồng
chí, đồng đội thắm thiết.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn
cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những
phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” - tiểu đội
những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh nghịch. Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét
đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của
những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp
đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía : “bắt tay
qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính,
những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết
nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò
chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em
ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng
chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức
mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi
lại đi trời xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như
xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật
lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với
điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân
của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản
nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên
ngang – tư thế của người chiến thắng.
d. Khổ cuối
dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị khái quát
nội dung cả bài thơ.
- Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không
còn nguyên vẹn về phương tiện kĩ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do quân
địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn
“không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã
dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích đó
lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền
tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần
trong xe có một trái tim”
- Vậy là đoàn xe đã chiến
thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với
một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống
nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một
trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra
biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của
người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng:
tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng
cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào
ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội
nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái
tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và
chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn đã
tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi bật chân lí
của thời đại: bom đạn, chiến tranh có
thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể
bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước nhỏ như Việt Nam
đã chiến thắng một cường quốc lớn.
=> Điệp ngữ
“không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn … chỉ cần có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ,
hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng
sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết
tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ
thù có thể làm lay chuyển được.
C. Câu hỏi luyện tập.
Câu 1: “Không có kính rồi xe không có đèn”
a. Chép tiếp câu thơ trên để hoàn chỉnh đoạn thơ
gồm 4 dòng.
b. Cho biết, đoạn thơ vừa chép trong bài thơ
nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ
c. Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng của
đoạn vừa chép được dùng với nghĩa như thế nào?
d. Viết một đoạn văn diễn dịch từ 6 đến 8 câu
phân tích hình ảnh người lính lái xe trong đoạn thơ.
Gợi ý:
a.Chép tiếp: Không có kính rồi xe không có
đèn.
Không có mui xe thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
b. (tham khảo phần kiến thức cần nhớ)
c. Từ
“Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ người lính lái xe
- Chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước
nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
d.
Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức
Tham khảo đoạn văn phân tích:
Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh
đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả
những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ
lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc
men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam đang
vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng
hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường,
dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu
giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một trái
tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ sự nhiệt tình
cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất
Tổ quốc. Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó,
khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc
chiến của người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến
đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.
Câu 2 : Mét sè
d¹ng ®Ò cho c©u chñ ®Ò sau ®ã triÓn khai thµnh ®o¹n v¨n
Triển khai câu chủ đề sau 1: Cả bài thơ là dòng cảm xúc của người lính lái xe trên con đường xe ra
tiền tuyến. Thật vậy, dòng cảm xúc ấy tuôn chảy dào dạt
trong suốt bài thơ. Đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin
của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên tâm hồn người
lính cũng có những nét thanh thản, vui tươi. Điều khiển những chiếc xe không
kính với một tốc độ phi thường như lướt nhanh trong bom đạn họ có cảm giác
thích thú, như cảm nhận cả con đường như “chạy thẳng vào tim”. Qua khung cửa
qua những chiếc xe không kính, các anh cảm nhận được vẻ đẹp của những “cánh
chim chiều” và “cả những ánh sao đêm”
lấp lánh trên bầu trời.. như “sa như ùa” vào buồng lái. Gió cũng được nhân hoá
và chuyển đổi cảm giác thật ấn tượng: “gió vào xoa mắt đắng”, mắt đắng, mắt cay
là những con mắt đói ngủ vì phải thức thâu đêm. Trong gian khổ ấy, họ vẫn cất
lên những nụ cười lạc quan, yêu đời từ những khuôn mặt lấm lem khi đồng đội gặp
nhau. Những câu thơ lạc quan yêu đời như thách thức với mọi khó khăn : “không
có kính, ừ thì có bụi. Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa phì phèo
châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.Cái bắt tay của người lính cũng
thật hồn nhiên, mộc mạc mà thấm thía tình đồng chí đồng đội: “bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi”. “Từ trong bom rơi” mà vẫn có cái bắt tay như thế thì thật mừng
vui, tự tin và tự hào biết mấy. Đời người lính là đi, nhất là lính lái xe,
nhưng trong những phút dừng chân ngắn ngủi, ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên
mà cao đẹp của tình đồng đội. Chỉ là “bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh”
Rồi cả những bữa cơm hội ngộ thân mật, tình đồng chí cũng như tình anh em ruột
thịt: “chung bát đĩa nghĩa là gia đình
đấy”. Đến cả giấc ngủ ngắn cũng rất đặc biệt thú vị : “võng mắc chông chênh
đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Trong tâm hồn họ, trời như xanh
hơn chứa chan hy vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu
không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống
Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật
tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.
Triển khai câu chủ đề2 :
Bài thơ gây được ấn tượng mạnh về các anh, những chiến sĩ
lái xe rất dũng cảm, rất đáng yêu bởi
những nét nghịch ngợm, ngang tàng. Thật vậy, người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất
cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh
và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Lái xe
trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải
trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp
gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không
đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời,
đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ
dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức
với mọi khó khăn:
- Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng
như người già
Chưa cần rửa phì
phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha
- Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối
như ngoài trời
Chưa cần thay, lái
trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa
khô mau thôi
Chuyện vặt ấy mà,
có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều
đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt
lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau
những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng
của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường
Trường Sơn ác liệt này. Và điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người
lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ
gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu
không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!
Câu 3: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
-
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất
trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các
anh coi thường: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo
châm điếu thuốc, chưa cần thay, lái trăm cây số nữa là sự thách thức, coi
thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong bom rơi, bị bom giật, bom
rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng phía trước, vui vẻ
bắt tay nhau. Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe
có xước, nhưng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước. Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt
trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn
bánh ra mặt trận. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là
yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.
Câu 4:
a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “Chông chênh”
trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh
thêm”
b. Chỉ với hai câu thơ trên,
Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp người lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ.
Hãy viết tiếp từ 7 đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hoàn chỉnh (trong đó có sử
dụng phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ)
Gợi ý:
a- “Chông chênh” là một từ láy
giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế không thăng bằng,
không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm của người lính trên đường
lái xe ra tiền tuyến. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện
lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến
đấu hết sức gian khổ, họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi, giữa làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự
sống.
-
Song từ “chông
chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn của kẻ thù
tưởng như có thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng không! HÌnh
ảnh những chiếc võng mắc “chông chênh” trên tuyến đường TS khói lửa ấy đã chứng
minh điều ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế
kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
b.Viết đoạn văn :
Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà những người lính lái xe
Trường Sơn phải trải qua. Đó là cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải ngủ những
giấc ngủ ngắn ngay trên xe giữa những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm trút
xuống nhằm huỷ diệt sự sống. Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả,
gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế không thăng bằng, không chắc chắn,
không vững chãi, gợi sự nguy hiểm. Song trong hoàn cảnh của bài thơ, từ “chông
chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính như ngạo nghễ, thách
thức kẻ thù. Họ luôn có tư thế tiến về phía trước. Điệp từ “lại đi” tái hiện
vòng bánh xe lăn tiến lên phía trước, rộng hơn là đoàn xe vận tải lao nhanh ra
mặt trận bỏ lại đằng sau tất cả đạn bom u ám để đến với bầu trời xanh phía
trước. Bầu trời xanh là hình ảnh tượng trưng cho hoà bình, cho cuộc sống tươi
đẹp. Với hình ảnh này, ta thấy được niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người
lính vào chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh lớn lao để đoàn xe lăn bánh tới
đích?
Câu 5: Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”, trong phần giải quyết vấn đề, bạn em đã nêu được một nhận xét:
“Bài
thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình
ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài
thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”
a.
Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
b.
Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành
một đoạn văn hoàn chỉnh.
Gợi ý:
a.Đề tài:
- Bài thơ phản ánh được cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua
hình ảnh những ch iếc xe không kính.
- Bài thơ là khú hát ngợi ca vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe
Trường Sơn.
b.Triển khai đề tài 2: Vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe (theo các
ý sau)
-
Tư thế hiên ngang, bình tĩnh (khi xe
mất đi những hệ số an toàn)
-
Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy,
đón nhận gian khổ khó khăn rất đàng hoàng, chủ động.
-
Lạc quan, vui vẻ, trẻ trung
-
Tinh thần quyết chiến, quyết thắng,
vượt lên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy, tất cả vì Miền Nam phía trước.
.
================
Đề 6: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”.
A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt
vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại
một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị
như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ - những
chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và
chống Mĩ là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính”
của Phạm Tiến Duật.
- Những người lính trong hai
bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người
lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
B.Thân bài.
1. Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần
yêu nước, khát vọng độc lập tự do để đi
vào cuộc chiến đấu.
- Người lính trong bài thơ
“Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày
lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải phóng khỏi
kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra
nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để
giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ
“mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng
quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân
vào cuộc đời người chiến sĩ: Ruộng nương anh
gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay
- Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những
chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương
lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam
yêu dấu:
“Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà
lòng phơi phới dậy tương lai”.
2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền
chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để
hoàn thành nhiệm vụ.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng
chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu thốn.
+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô
cùng gian nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng
trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không
giầy”… Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên
bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội
gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất
cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy
sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh
gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày
chiến thắng. Ta thấy được ở các anh một
tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười
dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng
trăng treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý
của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho
ta thấy rõ điều đó:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh
màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà
Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của
người lính và ta thêm cảm phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao
đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính
trong thời kì kháng chiến chống Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh
dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng
lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên,
cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những người con của quê hương lại tiếp tục
lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong
trang thơ của Phạm Tiến Duật là những
anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây,
từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút
xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác
liệt hiện hình trong hình ảnh những
chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo mó. Gian
khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc
nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường
Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có
những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm
vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được
vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có
những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái xe rất phớt
đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự
đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây
dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử
chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức
của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến
cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách
mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu
nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:
“Xe
vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ
cần trong xe có một trái tim”
3. Qua
hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen
giữa những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến
chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD đều có chung một
nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan
yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau
rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã
vững vàng nay lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống
thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính nhưng hai
bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm
hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng
chí, đồng đội của người lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa
anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của những
người lính lái xe.
C.
Kết bài:
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua,
đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc
động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù
lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống
làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng
quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một
niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment