CHUYÊN ĐỀ 18: “Bến quê” – Nguyễn Minh Châu.
1. Tác giả :
Nguyễn Minh Châu (1930 -1989) là một trong những nhà
văn tiêu biểu của văn học VN thời kỳ chống Mỹ với những thành công về tiểu
thuyết và truuyện ngắn. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này là thể hiện
khát vọng của nhà văn ‘đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn
con người’
Sau kháng chiến, ông là người đi tiên phong
trong công cuộc đổi mới văn học để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống ở một
thời kỳ mới.
Tác
phẩm của ông đã thể hiện những tìm tòi đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật, gây
được những tiếng vang rộng rãi trong công chúng và giới văn học.
2.
Tác phẩm : Truyện ngắn « Bến quê » in trong tập truyện
ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.
II. Một số câu hỏi xoay quanh tác phẩm.
Câu
1 : Nêu tình huống truyện « Bến Quê » và tác dụng của việc xây
dựng tình huống đó.
* Tình
huống.
- Căn bệnh hiểm nghèo
khiến Nhĩ, người đã đi đến hầu khắp mọi nơi trên thế giới - hầu như bị liệt
toàn thân không thế tự di chuyển được, dù chỉ là nhích nửa người trên giường
bệnh. Tất cả mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác
mà chủ yếu là của Liên, vợ anh.
- Tình huống trớ trêu ấy
lại dẫn đến một tình huống tiếp theo, cũng đầy nghịch lí. Khi Nhĩ đã phát thiện
thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà anh,
nhưng anh biết rằng sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con
trai thực hiện giúp mình cái điều khao
khát ấy, nhưng rồi cậu ta lại sa ào một đám chơi cờ trên hè phố và có thể lỡ
chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
* Tác dụng : Tạo ra
một chuỗi những tình hống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc một
nhận thức về cuộc đời : cuộc sống và số phận con người chứa đựng những
điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định, ước
muốn, cả những hiểu biết và toan tính củ người ta. Bên cạnh đó, tác giả còn
muốn gửi gắm mọi suy ngẫm : trong cuộc đời, người ta hướng đến những điều
cao xa mà vô tình không biết đến những vẻ đẹp gần gũi ngay bên cạnh mình.
Câu 2 : Tóm tắt truyện « Bến quê » khoảng 5 -6 dòng.
Buổi sáng đầu thu. Nhĩ
bị bệnh nặng nằm bên cửa sổ để Liên - vợ anh săn sóc. Anh nghĩ suốt đời mình đã
làm vợ khổ. Nhĩ nhìn qua cửa sổ đã phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi
bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà anh và trong anh bỗng bừng lên khao
khát được đặt chân lên vùng đất ấy, anh cũng biết rằng sẽ không bao giờ thực
hiện được điều ấy. Anh sai thằng Tuấn (con trai) thay anh sang bên kia sông chơi loanh quanh một lúc.
Chàng trai vâng lời nhưng lại ham vui nên muộn chuyến đò. Bọn trẻ hàng xóm sang
giúp anh. Cụ giáo Khuyến ghé vào hỏi thăm. Nhĩ cố sức giơ tay ra ngoài cửa sổ
như ra hiệu khẩn thiết cho một người nào đó.
Câu 3 : Tìm hiểu những hình
ảnh, chi tiết trong truyện mang tính biểu tượng :
Trong truyện « Bến
quê », hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và
nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực và hai lớp
nghĩa này gắn bó thống nhất với nhau đem đến cho truyện ngắn này một vẻ đẹp
riêng : vừa gợi cảm, sinh động, vừa khái quát triết lí.
- Hình ảnh bãi bồi, bến
sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện mang ý nghĩa
biểu tượng cho vẻ đẹp gần gũi, bình dị, thân thuộc của quê hương, xứ sở, của những gì thân thương
nhất mà trong một đời người thường dễ dàng lãng quên bởi chính cái điều vòng
vèo hay chùng chình thường mắc phải.
- Những bông hoa bằng
lăng nhợt nhạt khi mới nở ; đậm sắc hơn khi đã sắp hết mùa, rồi lại càng
thẫm màu hơ, một màu tím thẫm như bóng tối. Đó là ý nghĩa biểu tượng về không
gian và thời gian : cái đẹp gần gũi bình dị rồi cũng tàn phai bởi thời
gian luôn thay đổi với những bước đi của nhịp hải hà.
- Những tảng đất lở bên
bờ sông khi con lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ báo
hiệu trước sự sống của nhân vật Nhĩ cũng đã sắp lụi tàn
- Chân dung và cử chỉ
của Nhĩ ở đoan cuối truyện : chỉ còn đôi bàn tay với những ngón tay vừa
bấu chặt vừa run lẩy bẩy.. Cánh tay gầy guộc đưa ra ngoài phía cửa sổ khoát
khoát như đang hụt hẫng, cố bám víu hiện tại nhưng lại vô vọng bởi chính cái sự
vòng vèo và chùng chình của người con. Hình ảnh này mang ý nghĩa biểu tượng sâu
sắc. Chân dung của Nhĩ ở cuối truyện là chân dung của một con người đang đi
vào cõi chết nhưng đã thức nhận được
cuộc đời và chính mình trong « một nỗi mê say đầy đau khổ ». khiến
mặt mũi « đỏ rựng một cách khác thường ». Hành động cuối cùng của Nhĩ
có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến
đò duy nhất trong ngày. Nhưng không dừng ở cụ thể, hình ảnh này còn mang ý
nghĩa khái quát. Cái cánh tay giơ lên khoát khoát của con người đã bước tới
ngưỡng cửa của cái chết phải chăng là ước muốn cuối cùng của Nhĩ gửi lại cho
đời : anh muốn thức tỉnh mọi người hãy sống khẩn trương, có ích, đừng sa
vào những cái « vòng vèo, chùng chình », hãy dứt ra khỏi nó để hướng
tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị gần gũi và bền vững của gia đình
và của quê hương.
Câu
4 : Phân tích hiềm khao khát của nhân vật Nhĩ trong giờ phút cuối cùng của
cuộc đời.
- Trên giường bệnh, qua
khung cửa sổ,. Nhĩ đã nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu
thu với những bông hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng lại đậm sắc
hơn ; con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra ; vòm trời
như cao hơn ; và sau cùng là điểm nhìn của anh dừng lại ở cái bãi bồi bên
kia sông : « Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên
những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên
kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khung cửa gian gác nhà Nhĩ một một thứ
màu vàng thau xen lẫn màu xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da thịt,
như hơi thở của đất màu mỡ ». Thật kì lạ, cái bãi bồi vốn quen thuộc gần gũi ấy bỗng như mới mẻ với
anh trong buổi sáng đầu thu này, ngỡ như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả
vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Bởi đây là một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì
chưa hề bao giờ đi đến ». Cho nên trong cái giờ phút cảm thấy sắp từ giã
cõi đời, trong anh bỗng bừng dậy khao khát mãnh liệt là được đặt chân một lần
lên cái bãi bồi bên kia sông- cái bãi bồi thân quen của quê hương mà suốt cả
cuộc đời dường như anh đã quên nó, hờ hững với nó. Giờ đây, thấy lại được vẻ
đẹp và sự giàu có của nó thì đã quá muộn và niềm khát khao ấy tuy bùng lên mạnh
mẽ nhưng chỉ là một niềm khát khao vô vọng, vì hơn ai hết, anh biết chắc mình
sẽ chẳng bao giờ đến được đó.
- Sang được bờ sông bên
kia, với Nhĩ vừa là ước mơ, vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Tính biểu tượng từ
« cái bên kia sông mở ra hai tầng ý nghĩa. Trước hết đó là một ước mơ : con người ta hãy đi đến cái
« bên kia sông » của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông
Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con
đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới ước mơ
kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong
tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là
cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm
tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã đến được. Cái vùng
« mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở độ
chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do
không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không
hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám
người chơi phá cờ thế bên hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé
đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là « một cánh buồm
vừa bắt gió căng phồng lên ». Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ
« cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo » cứ chập
chờn, khi là đứa con, khi chính là mình. Hình ảnh tuyệt vời, trẻ trung này là
mơ ước của anh.
- Niềm khao khát đó nói
lên nhiều điều có ý nghĩa :
+ Sự thức tỉnh về những
giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống - những giá trị thường bị
người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang
lôi cuốn con người tìm đến.
+ Đó là sự thức tỉnh
« giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn » nhưng đó
là một « sự thức nhận đau đớn sáng
ngời của con người » (Lê Văn Tùng)
Câu
5 : Tìm hiểu ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu ở truyện ngắn
này.
- Tinh tế : phát
hiện những biến thái tinh tế trong tâm trạng nhân vật. Nhĩ đã nhận ra bằng trực
giác cái giờ phút cuối cùng của cuộc đời đã đến (câu hỏi của Nhĩ vói
Liên : « Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không ? »
và « Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ? ». nhưng tác giả đã
không để cho Liên trả lời thì đó chính là nhân đạo. Liên cảm nhận được tình
cảnh của Nhĩ nên chị đã lảng tránh.
- Người cha sắp từ giã
cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Đó là một
nhận xét tinh tế của tác giả về Nhĩ khi anh bắt đầu nói chuyện với con để nhờ
cậy nó sang cái bãi bồi bên sông hộ mình. Và trong cuộc đối thoại này, tâm lí
Nhĩ đã bộc lộ thật đúng qua sự miêu tả tinh tế của t ác giả (qua thái độ, lời
nói) và chính sự tinh tế này lại thấm đượm tinh thần nhân đạo ở chỗ nó đã nói
lên một cách sâu sắc cái ước muốn nhỏ nhoi của Nhĩ.
- Cũng như vậy, đoạn Nhĩ
nghĩ về con người khi nhận ra thằng con trai của anh đang sà vào một đám người
chơi phá cờ thế có thể sẽ bị lỡ chuyến đò ngang sang sông duy nhất trong ngày
và hình ảnh cuối cùng khi Nhĩ cố hết sức đu mình nhô người ra ngoài, giơ một
cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát… đều là những nét miêu tả
tâm lí vừa tinh tế, vừa nhân đạo của tác giả.
Câu 6 : Phân tích hình ảnh nhân vật Nhĩ ở đoạn cuối truyện
Đây là hình ảnh cuối
cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc.
Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất khác
thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời,
Nhĩ mới thấm thía. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng.
Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê
say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng
manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời
người ? Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra ngoài cửa
sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như
khẩn thiết ra hiệu cho con trai thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình
hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền
đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt
con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong
tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy
tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần
gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan,
mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi
nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa,
day dứt của Nguyễn Minh Châu tới
tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo,
chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt
đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi
và bền vững của gia đình và quê hương.
Câu 7 : Em có suy nghĩ gì về những người xung quanh Nhĩ.
- Những người xung quanh
Nhĩ là những người rất tốt. Họ có lẽ sống ân tình, quan tâm đến mọi người. Hình
ảnh cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình ảnh ân
tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khoẻ, một lời động
viên, an ủi ân cần : « Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khoẻ ra
nhỉ ? » thật cao quý và ấm áp nghĩa tình. Các cháu Huệ, Hùng, Vân,
Tam, xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm vào,
nương nhẹ giúp anh xê dịch chỗ nằm từ
mép tấm nệm ra mép tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại
« toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi
với ». Huệ đã giúp nhiều nên đã
quen với việc đỡ cho Nhĩ nằm xuống. Đặc biệt là vợ con Nhĩ. Tuấn không hiểu mục
đích của chuyến đi, nhưng vẫn sẵn sàng nghe lời bố, dẹp thú đọc sách lại để đi
sang bên kia sông. Vợ Nhĩ thì vì chồng mà từ một cô thôn nữ trở thành người đàn
bà thị thành, vẫn mặc áo vá, tần tảo và chịu đựng, không kêu ca một lời. Có gì
hạnh phúc hơn khi được sống trong tình yêu thương của gia đình và quê hương như
thế ?
Câu
8 : Nhận xét nào sau đây đúng với câu : « Đêm qua lúc gần sáng,
em có nghe thấy tiếng gì không ? »
A. Chỉ là một câu hỏi
bình thường, không có hàm ý gì ?
B. Có hàm ý nói đến việc
đất lở ven sông .
C. Có hàm ý nói đến việc
đất lở ven sông, gợi sự đổ vỡ, mất mát, gợi sự liên tưởng đau lòng đến tình
trạng nguy kịch của người chồng đang ốm, khiến anh lo buồn thêm.
(Câu C đúng với câu đó)
Cau 9 : Giải thích nhan đề
truyện « Bến quê ».
- Đặt tên cho truyện
ngắn « bến quê », điều ấy vừa bình thường, vừa có gì khác thường. Nó
bình thường ở chỗ « : Bến quê là nơi sinh hoạt đông vui ở làng
quê như bến nước, mái đình, cây đa… ; bến quê còn là nơi bến đậu của
con đò quen thuộc, của những con người quê hương đã từng bôn ba đây đó, đã từng
trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời nay trở về sống những ngày tháng cuối
cùng, cảm thấy được che chở và bình yên. Bến quê với họ lúc này là nơi trú ngụ
êm đềm nhất trong cuộc đời mỗi con người bởi con người ta ai chẳng có một quê
hương để một đời gắn bó. Còn khác thường
là ở chỗ : cái bến quê ấy, cái bãi bồi bên kia mà nhân vật Nhĩ hướng về
chưa hẳn là nơi chôn rau cắt rốn của anh ? Có lẽ đó là quê hương của những
người mà anh nhìn thấy : cả một đám khách đợi đò, quê hương của những
người đi bộ hay dắt xe đạp, rõ hơn nữa, trong số ấy có « một vài tốp đàn
bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy » đằng
kia. Với nhân vật Nhĩ, đây chỉ là một miền tưởng nhớ, một mơ ước xa xôi. Con đò
sang bên kia sông cũng là con đò chở niềm ao ước gần gũi mà xa vời của anh. Và
con đò đến bến bờ cũng là thực hiện niềm ao ước ấy. Nhan đề truyện cho thấy
cách lựa chọn đề tài của tác giả thật dung dị nhưng mang tính biểu tượng sâu
sắc. Đó là một đặc điểm nghệ thuật bao trùm của « Bến quê » tạo nên
cách hiểu đa dạng và ý nghĩa nhiều tầng của thiên truyện.
10. Nhận xét nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên trong
truyện « Bến quê ».
- Thiên nhiên trong
truyện ngắn « Bến quê » không mang vẻ đẹp như thiên nhiên trong nhiều
thi phẩm khác mà ta đã được biết. Nếu như trong các tác phẩm « Cô Tô » của Nguyễn Tuân, « Sang thu » của Hữu Thỉnh, « Đoàn thuyền đánh cá » của Huy Cận,
hay « Lặng lẽ Sa Pa » của
Nguyễn Thành Long… cảnh thiên nhiên đẹp rực rỡ, lung linh, huyền ảo, mộng mơ được
cảm nhận qua tâm hồn rung cảm của người nghệ sĩ thì trong truyện ngắn
« Bến quê », thiên nhiên hiện lên dung dị hơn qua cảm nhận của một
người con quê hương. Đoạn truyện đã thể hiện rõ cái cảm quan hiện thực của
người viết - một cái nhìn thiên nhiên, khung cảnh rất đời, rất gần gũi. Trong
những giây phút cuối đời, anh nhìn ra ngoài cửa sổ, nhận thấy những thay đổi
rất nhỏ nhặt như « những cánh hoa bằng lăng dường như thẫm mầu hơn-
một màu tím thẫm như bóng tối ». Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển
từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời
của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khung cửa gian gác nhà
Nhĩ một một thứ màu vàng thau xen lẫn màu xanh non- những màu sắc thân thuộc
quá như da thịt, như hơi thở của đất màu mỡ ». Những sắc màu thân thuộc
như khí trời, hơi thở, gần gũi như đời sống nhưng dường như lần đầu tiên Nhĩ
mới nhận ra, mới thấm thía hết vẻ đẹp của nó. Phải chăng, trong cuộc sống bình
dị cũng có những nét đẹp của nó nhiều khi không dễ nhận ra. Trong câu hỏi anh
hỏi vợ : « Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không ? » ta
bắt gặp những âm thanh quen thuộc mà bình thường Nhĩ cũng chẳng bận tâm, nhưng
giờ đây với anh nó thật thân thuộc và quý giá biết bao ! Hình ảnh cánh
buồm nâu cứ trở đi trở lại trên con sông như đọng lại trong tâm tưởng của Nhĩ,
anh quá hiểu rằng mình chỉ có thể sang bờ đất mơ ước trong tâm tưởng mà thôi.
Cánh buồm tượng trưng cho sự nghèo đói của quê hương được nhìn dưới con mắt đầy
tình yêu thương và xót xa của Nhĩ. Mảnh vá trên cánh buồm hay trên tấm áo của
Liên…. đó là tất cả hình ảnh quê hương gần gũi, yêu thương mà nặng trĩu niềm
xót xa, thương cảm. Hình ảnh quê hương trong văn học Việt Nam vốn hiện
lên với nét đẹp rất thơ mộng… Trên trang văn của Nguyễn Minh Châu thì khác hẳn,
quê hương vất vả tiêu điều, trong sự tần tảo sớm hôm. Đằng sau sự gắn bó với
quê hương, với bờ bãi bên kia sông gần gũi mà xa lắc, ẩn dưới nó là nỗi niềm
day dứt gần như xót xa. Cái nhìn thiên nhiên của Nhĩ là một cái nhìn rất hiện
thực, rất đời, rất tỉnh táo mà chan chứa tình yêu thương da diết.
Giờ đây, trong những
khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm thía. Anh đang cố gắng bấu
chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy
niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên
trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa
sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận
được sự ngắn ngủi của đời người ? Vì thế anh lấy hết sức « đu
mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền
đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai thực hiện
niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó
cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước
của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau
khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh,
vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của
đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã
che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc
anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn
Minh Châu tới tất cả chúng ta :
hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ,
hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng
tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và
quê hương.
PHẦN TẬP LÀM VĂN :
Đề
1 : Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật
Nhĩ trong truyện « Bến quê » của Nguyễn Minh Châu
Gợi ý :
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh
Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông là người luôn
trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình
đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến
quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu
chuyện là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội tâm phong phú đầy
trải nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình
tượng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức tỉnh sự trân trọng
những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn
cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số
phận của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã từng bôn ba, được
tiếp xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới nhưng đến cuối
đời lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt
toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp
ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường
tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái
khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ;
Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một
triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra
vùng đất bên kia sông- nơi bến quê quen thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh
chưa một lần đặt chân đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần,
chu đáo của vợ, anh mới nhận ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh
thầm lặng của vợ. Và anh khát khao cháy bỏng được đặt chân một lần lên bến quê
- bờ bãi bên kia sống, cái miền đất thật gần gũi mà bây giờ với anh trở nên xa
lắc.
=> Phải chăng nhà văn
đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với
cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận
thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều
bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước
muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng
định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời
người : Con người ta trên đường đời
thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2.
Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật
Nhĩ
a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện qua sự cảm nhận của
anh về thiên nhiên trong một
sớm đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi
sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác
chẳng hạn như : Cô Tô - Nguyễn Tuân, hay « Sang thu » của Hữu
Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những
cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật
ấy dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng. :
+ Những bông hoa bằng
lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn…
để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu phải
là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của
sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm
hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ Đặc biệt là anh nhận
ra vẻ đẹp của bến quê - đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông : H/a con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như
rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu như cao hơn : Những tia nắng
sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù
sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non..
những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen
thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát
hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. có cảm giác như lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những
vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm nghiệm :
« Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây
là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến » Phải chăng đây là tâm trạng của một con
người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một
đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo,
chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng
còn sống được bao lâu nữa. Anh đang phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn
lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm
nay « cũng chỉ cảm thấy như hôm qua ». Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy
như mình « vừa bay được một nửa vòng trái đất ». Lạc quan, hi vọng
như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người
thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không
nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này « cùng với con lũ nguồn
đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt,
giật mình như bấm đốt ngón tay : « hôm nay đã là ngày mấy rồi em
nhỉ ? ». Trước những lời anh hỏi vợ và sự im lặng của Liên, ta cảm
nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết đến dần với
anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về
tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc
khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở
trường hợp thứ hai.
b. Cảm nhận của Nhĩ về Liên (vợ anh).
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý
thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai
của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm
lặng của vợ.
- Anh nói với chị
Liên : « Suốt đời anh chỉ làm em
khổ tâm mà em vẫn nín thinh ». Còn Liên đã trả lời : « Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn
có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này »..
- Nhìn vợ bước xuống cầu
thang với tiếng bước chân « rón rén
quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm »,
anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng
nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu,
chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì
hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh mới thực sự
thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : « Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên
kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ
bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm
kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này »
- Thật là đau đớn với
anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng đời còn trẻ
với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để
được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân
vật « anh ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ).
Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn « Cỏ lau » : người
chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói điều gì
cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình,
im lặng ? Nhưng dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp
của lương tâm bởi tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức nhận ấy đã đọng lại trong
niềm khát khao cháy bỏng của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt
chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp rất đỗi
bình dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được bờ sông bên
kia , với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ
« cái bên kia sông » mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước
mơ : con người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời
mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực
và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà
thôi. Muốn đến với cái thế giới mơ ước kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi
trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời
chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy
thật nguyên vẹn, thật dung dị « cả trong những nét tiêu sơ ».
- Thế giới ước mơ ấy
chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ
tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con
người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa
chắc đã đến được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng
hiểu được nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như
Tuấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng
lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó
sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn
Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng
là « một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Những hành động, cử chỉ của cậu con trai phải
chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được điều anh
nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận
của riêng anh : « con người ta
trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình »
- Đó là triết lí của một
người đã trải nghiệm « Hoạ chăng chỉ
có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy
thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên
kia », đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn trẻ vô tình bỏ qua
những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của hai
thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu
được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên
mỗi chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần
trân trọng những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên
ta.
d. Hành động cuối truyện :
- Đây là hình ảnh cuối
cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc.
Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất khác
thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời,
Nhĩ mới thấm thía. ». Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với
Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Cho nên
hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên « long
lanh » một cách khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng.
Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê
say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng
manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ?
Thời gian không thể chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác ! Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô
người ra ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh
tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên thực hiện niềm
mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó
cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước
của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau
khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh,
vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của
đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã
che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc
anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn
Minh Châu tới tất cả chúng
ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình,
những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt
khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững
của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ
của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong
truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn Minh Châu
sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận
thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật
nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho
một ai mà là cho tất cả. Chính những chiêm
nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm của nhân
vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã
được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự
nhiên mà sâu sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh
Châu đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật
Nhĩ. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để khắc
hoạ tính cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.
- Từ những « nhận
thức đau đớn và sáng ngời » của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí sâu
sắc ở đời : Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc
chùng chình ». Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những
giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê
hương ».
- Mỗi chúng ta hãy luôn
tự ngẫm về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của mình trong lúc chưa
quá muộn.
Đề 2 : Bình luận truyện
ngắn « Bến quê » của Nguyễn Minh Châu
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh
Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông là người luôn
trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình
đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến
quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
B. Thân bài :
1. Bình
luận về tình huống nghịch lí của truyện
+ Nhĩ bị liệt toàn thân,
không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự
sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều
nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống
mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ; Ô- hen
ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một triết lí
về đời người.
- Cả cuộc đời Nhĩ đã đi
khắp mọi nơi nhưng rồi cuối đời anh chỉ muốn nhích tới bên cửa sổ mà khó khăn
« như phải đi hết nửa vòng trái đất ». Cho đến cái bãi bồi bên kia
sông Hồng thật gần gũi nhưng anh chẳng bao giờ có thể đặt chân lên mảnh đất ấy
thì đây quả là thêm một nghịch lí đáng buồn.
- Rồi cậu con trai anh
không sao hiểu nổi cái khát vọng kì cục mà lớn lao của bố : Nó sa vào một
đám chơi cờ thế, rất có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày =>
đó cũng là một điều nghịch lí.
- Ngay cả người vợ một
đời tần tảo, giàu tình yêu thương nhưng phải đợi đến lúc sắp giã biệt cõi đời,
Nhĩ mới cảm nhận thấm thía được lại càng là nghịch lí và trớ trêu…
=> Phải chăng nhà văn
đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với
cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận
thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều
bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước
muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng
định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời
người : Con người ta trên đường đời
thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Bình
luận về những cảm xúc của nhân vật Nhĩ.
- Nhĩ nằm đó, trong cái
mớ rối rắm bòng bong những nghịch lí để tự hồi tưởng, tự phân tĩnh, tự sám hối
và nhận ra những điều không có gì là xa lạ.
a. Cảm xúc về thiên nhiên.
- Cảnh vật được cảm nhận
bằng cái nhìn đầy tâm trạng : sự thay đổi sắc màu của những bông hoa bằng
lăng ; của con sông Hồng, của bầu trời thu, của cái bãi bồi bên kia sông,
con đò có cánh buồm nâu bạc…. gợi ra một
không gian vừa có chiều sâu, vừa có chiều rộng.
- Cảnh vật ấy cứ dần dần
hiện ra với những vẻ đẹp riêng và chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc
thật tinh tế của một con người sắp từ giã cõi đời.
+ Những bông hoa bằng
lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn…
để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu phải
là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của
sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm
hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ H/a con sông Hồng màu
đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra vốn cũng chỉ là hình ảnh của cái đẹp bình
dị, gần gũi, gắn bó bao đời, vậy mà giờ đây bỗng trở nên xa xôi quá, ngăn cách
quá vì cả đời Nhĩ đã vòng vèo, chùng chình nên đến giờ mới nhận ra được điều
đơn giản ấy.
+ Ngay cả cái vòm trời
màu thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước
lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ
màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da
thịt, như hơi thở…. Vậy mà cũng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được
như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. Đây là « một chân trời gần
gũi mà lại xa lắc vì chưa bao giờ đi đến ». Phải chăng đây là tâm trạng
của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê
hương nhưng một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái
điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
b. Cảm xúc về vợ :
- Phát hiện thấy ở Liên
những tình cảm dịu dàng, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng.
+ Liên mặc tấm áo vá,
những ngón tay gầy guộc vuốt ve chồng, lảng tránh trả lời khi Nhĩ hỏi.
+ Nhĩ nhận ra sự nghiệt
ngã của thời gian, không còn bao lâu nữa anh sẽ mãi mãi ra đi, Nhĩ đành phải
xót xa nói ra một điều ân hận nhất : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ
tâm… mà em vẫn nín thinh ! »
+ Liên vẫn ân cần, vẫn
yêu thương, lặng thầm hi sinh, chịu đựng : Anh cứ yên tâm.. Miễn là anh
sống, luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này. »
- Giờ thì Nhĩ đã hiểu
thật sâu, thật đau với một sự thấu hiểu, một sự ân hận và lòng biết ơn sâu sắc
nhưng cũng đã muộn màng. (so sánh với Khúng và Huệ trong « Phiên chợ
Giát »). Tại sao không nương tựa vào nhau để đi qua cuộc đời, qua số phận
và bám lấy mảnh đất quê hương để mà sống, để tạo lập cuộc sống, để khẳng định
con người trên mảnh đất này ? Sao không thể có được một cuộc đời tuy lầm
lũi mà hạnh phúc như lão Khúng với mụ Huệ trong truyện « Phiên chợ
Giát » dù cho cuộc đời có thấm đẫm đầy máu và nước mắt ? Phải chăng
cũng bởi những cái vòng vèo, chùng chình không dứt ra được khiến cho Nhĩ từ lâu
đã không nhận ra được tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng ấy
của Liên ? Và để rồi cuối cùng mới nhận ra được cái đẹp trong tâm hồn
vợ : cũng như cánh bãi bồi đang nằm
phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu
đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày
tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong
những ngày này.
- Cách so sánh đầy tính
triết lí trên đây của tác giả không chỉ là lời ngợi ca, sự nhìn nhận xứng đáng
dành cho Liên mà còn là một phát hiện vốn cũng rất bình thường nhưng cũng đã bị
chính cái vòng vèo, cái chùng chình làm cho con người ta đã phót lờ nó, xem
thường nó, coi đó như là một lẽ đương nhien. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát
hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành
cho nhân vật « anh ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc
hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn « Cỏ
lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)…
Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng
thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im lặng ?
c. Cảm xúc về quê hương (từ
những cảm nhận về thiên nhiên, cảm nhận về Liên, Nhĩ chợt nhận ra cái đẹp muôn
thuở của quê hương)
- Thì ra « suốt
đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất » vậy
mà giờ đây, nằm trong căn phòng nhìn qua cửa sổ, Nhĩ mới thấy được tất cả vẻ
đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi của cái bãi bồi bên kia sông khi mình sắp từ giã
cõi đời.
d. Cảm xúc về bản thân và bình luận về tâm trạng khao khát của Nhĩ muốn
được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
- Bãi đất ấy đã làm bừng
dậy một niềm khao khát vô vọng là được đặt chân lên một lần đến đó.
- Điều ước muốn ấy chính
là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường, sâu xa trong cuộc sống
vốn thường bị người ta lãng quên và chỉ có thể cảm nhận được khi đã ở cái độ
từng trải.
- Thật là đau đớn vì đối
với Nhĩ đó cũng là lúc cuối đời, cận kề với cái chết. Cho nên sự thức tỉnh tình
yêu quê hương, yêu cái đẹp dung dị, bình thường, gần gũi có xen lẫn với niềm ân
hận và nỗi xót xa : « hoạ chăng
chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn
thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ
bên kia ». Và cũng chỉ có anh mới nhận ra được điều đó, ngay cả đứa
con anh cũng không sao hiểu được điều anh mơ ước. Nó ra đi một cách miễn cưỡng
rồi bị cuốn hút vào trò chơi giải cờ thế trên vỉa hè, rất có thể nhõ chuyến đò
ngang. Quả thật là « con người ta
trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình »
vậy.
- Nhĩ thất vọng nhưng ôm
nỗi buồn riêng không hề trách móc một ai. Vì « vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu ! »
Nhĩ chỉ còn biết thu hết tàn lực vào cái giờ phút không thể dừng lại được nữa
khi thấy con đò ngang vừa chạm vào mũi
vào đất lở bên này sông »… « để đu mình, nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc.. khoát
khoát… »Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau
lên kẻo lỡ chuyền đò ? Phải chăng anh đang cảm nhận cái ngắn ngủi của thời
gian không hề chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác. Hình ảnh này còn gợi ra ý
nghĩa khái quát hơn nữa : đó là ý muốn của nhân vật (cũng như của nhà văn)
là thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa
vào trên đường đời. Hãy mau mau dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích
thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
3. Ý đồ
của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong
truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn Minh Châu
sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận
thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời vì như trên đã dẫn theo lời của tác
giả là « cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan ». Tác giả đã gửi
gắm qua nhận vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ
không đại diện cho một ai mà là cho tất cả. Do đó nhận vật không bị biến thành
cái loa phát ngôn cho một giai tầng nào đó trong xã hội hay cho chính nhà văn.
Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống
nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động
của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận
đề một cách tự nhiên mà sâu sắc.
4. ĐÁnh giá những thành công về
nghệ thuật xây dựng truyện.
- Miêu tả tinh tế tâm
trạng, cảm nghĩ của nhân vật mang đầy ý nghĩa triết lí về con người.
- Sáng tạo những hình
ảnh giầu ý nghĩa biểu đạt và hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa :
nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. (Dẫn chứng : hình ảnh hoa bằng lăng, hình
ảnh bãi bồi bên kia sông, của con đò, của cánh buồm nâu đã bạc mầu… những tảng
đất lở bên bờ sông…. hình ảnh cuối truyện….)
C. Kết luận.
- Nguyễn Minh Châu là
nhà văn đi được xa nhất trên con đường đổi mới văn học, trong thời kì mà văn
học đang « tự thay máu » của mình. Nhân vật thể hiện được những chiêm nghiệm, những điều
trở trăn của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh, minh
chứng cho sự đổi t hay của một thời kì văn học mới.
- Tác phẩm mang phong
cách hiện đại, tính nhân văn sâu sắc.
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment