Hướng dẫn mua bán BITCOIN chi tiết => Bấm vào đây
Tải app VNPAY nhận ngay 50.000 vào ví => Bấm vào đây
Bài 1 : ÔNG ĐỒ (Vũ Đình Liên)
Sáng
tác của Vũ Đình Liên là sự hoà quyện của
hai nguồn cảm hứng: “Lòng thương người và tình hoài cổ” (Hoài
Thanh).Tình hoài cổ khiến thơ ông có cái bâng khuâng tiếc nuối những truyền
thống văn hoa mờ nhạt dần, những bi kịch “biết tìm đâu” “cảnh xưa rực rỡ trăm
màu” (Hồn xưa). Còn lòng thương người khiến câu chữ như động cựa bởi nỗi xót xa
trước những cảnh “thân tàn ma dại”. “Ông đồ”-một trong những bài thơ nổi tiếng
của Vũ Đình Liên chính là sự thăng hoa của hai nguồn cảm hứng này.
Mỗi dịp tết đến xuân về, người Việt xưa thường
có thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó,
viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Người có hoa tay, viết chữ mà tưởng
như vẽ bức tranh. Đầu thế kỉ XX, trên các phố phường Hà Nội còn lưu giữa lại
hình ảnh những cụ đồ nho cặm cụi đậm tô từng nét chữ “tròn, vuông tươi tắn”
(chữ dùng của Nguyễn Tuân) trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đón Tết. Hình
ảnh ấy đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản
dị mà sinh động: Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua
Cấu
trúc “mỗi...lại” cho ta thấy sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành quy luật
quen thuộc. Hoa đào từ lâu đa xtrơe thành sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy nói “hoa
đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và
năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng
mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết.Lời thơ từ tốn mà chứa
bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh
thơ này, ông đò lại trở thành tâm điểm. điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập
vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái quý giá nhất mà ông
có. đoạn thơ hai mươi chữ giới thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân
vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ sau:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Từ
phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đò ngồi viết chữ.Câu thơ ấm
ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chât phiếm định “bao nhiêu” và tính từ
“tấm tắc”biểu đạt sự thán phục, ngợi cn, trân trọng. Ngươì xưa quan niệm chữ
nho là thứ chữ thánh hiền. Học chữ ấy không phải đê kiếm sống mà mục đích cao
nhất là để làm người, để có thể phò vua, trợ nước, giúp đời. Đầu thế kỉ XX,
tình hình đất nước Việt Nam có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực.Tình
trạng “Âu học chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” rồi
khoa thi cuối cùng của triều đình phong
kiến đã làm tiêu tan bao giấc mộng vinh quy bái tổ của các đệ tử của Khổng sân
Trình. Để tìm kế sinh nhai, họ chỉ còn một cách duy nhất là đi bán chữ như hoàn
cảnh của ông đồ trong bài thơ. Dẫu việc đánh đổi chữ thánh hiền để lấy miếng
cơm manh áo chỉ là việc cùng bất đắc dĩ,
chẳng phải vui sướng, danh giá gì nhưng cái tấm tắc ngợi khen của người
đời cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời.Họ súm
sít thuê ông viết chữ, trầm trồ trước cái tài hoa của ông cũng có nghĩa là còn
biết trân trọng tài năng và cái đẹp.Hai câu tiếp theo, nhà thơ miêu tả cận
cảnh, đặc tả nét bút tài hoa của ông đồ:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng mua rống bay
Câu
thơ gợi ta nhớ đến một hình ảnh tương tự mà Đoàn Văn Cừ ghi lại được trong
phiên chợ tết:
Một thầy khoá ò lưng trên cánh phản
Người
đọc tưởng như nhìn thấy trước mắt bàn tay có những ngón thon dài nhỏ nhắn của
ông đồ uốn lượn cây bút.Theo đà đưa đẩy của bút lông từng nét chữ còn tươi màu
mực dần dàn hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay”.Dường như trongnét chữ ấy
ông đồ gửi gắm tất cả cái anh hoa, khát vọng và lí tưởng của mình.Chính linh
hồn và tâm huyết của người đã làm con chữ sống dậy.Câu thơ của vũ Đình Liên như
cũng muốn bay lên với niềm hân hoan trong thời kì hoàng kim của ông đồ.
Nếu
cứ tiếp tục nhủ thế thì nhà thơ cũng chẳng có gì để nói. Bất ngờ là đặc trưng
cảu cuộc đời. Khổ thơ thứ ba bắt đầu bằng một từ “nhưng” dự báo biết bao thay
đổi:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu
thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại
đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại
“mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc”
kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như
đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật
ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu
hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người
thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên :
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật
vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều
phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng
của con người. Bởi chẳng phải mực và
giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao? Quả là:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đau bao giờ
(Nguyễn Du-Truyện Kiều)
` Nếu
như trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm không gian và lòng người thêm náo
nức.Người ta đón nhận ông bằng tất cả sự trân trọng, kính yêu. Thì giờ đây:
Ông đồvẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
“Vẫn
ngồi đấy” nghĩa là ông vẫn đến theo tín hiệu của hoa đào, vẫn “bày mực tàu giấy
đỏ” trên con phố dông người lại qua sắm tết. Ông chờ đợi cái súm sít, tấm tắc
của người đời nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ đến đáng sợ. Nghệ thuật đảo ngũ
cùng kết hợp phủ định “không ai” thể hiện rõ nét cái lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm
đến đáng sợ cảu người đời. Họ cứ đi lại, vui vẻ nói cười mà không có chút ý
thức nào về sự tồn tại của ông đồ. ông đã bị họ lẵng quên, bị đẩy ra bên lề
cuộc sống. Tình cảnh của ông đồ có khác gì những ông cống, ông nghề trong thơ
Tú Xương:
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Đã đau đớn chôn vùi giấc mộng vinh
quy, bán dần chữ thánh hiền để kéo dài thêm kiếp sống vậy mà lại bị lãng quên
ngay trong lúc đang còn tồn tại. Câu thơ có cái già đắng đót cho bi kịch được
nhân tới hai lần của ông đồ. Người đọc bỗng nhói lòng bởi dáng ngồi như hoá đá
của ông giữa một trời mưa bui bay bay và những chiếc lá vàng đậu trên trang
giấy: Lá vàng rơi
trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Ai
đó đã nói: Khi con người lui bước thì thiên nhiên chế ngự. Bởi không còn được
dùng đến, bởi sự chờ đợi trong yên lặng quá lâu nên lá vàng tha hồ thả mình
trên giấy. Ở đây cũng là mưa xuân nhưng nó không “phơi phới bay” như trong thơ
thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính sau này. Ông đồ hình như cứ bị chìm lấp, mờ nhạt
dần trong màn mưa. Để rồi đến khổ cuối thì bóng hình ông hoàn toàn không còn
nữa:
Năm nay hoa đào nở…Không
thấy ông đò xưa
Khổ thơ chơi vơi trong cảm giác thiéu
vắng, mất mát. Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến nhưng không còn đượng vẹn nguyên như xưa nữa. Ngôn ngữ thơ có
sự chuyển đổi tinh tế từ “ông đò già” đơn thuần chỉ tuổi tác thành “ông đồ
xưa”, biến nhân vật vĩnh viễn thành ‘cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một
thời tàn” (lời Vũ Đình Liên). Văn minh, Âu hoá kông chấp nhận ông, không cho
ông một con đường sống nên ông phải lỗi hẹn với hoa đào. Bài thơ khép lại bằng
tiếng “gọi hồn” tha thiết của tác giả:
Những người muôn năm cũ…hồn ở đau bây giờ?
“Những người muôn năm cũ” ấy là ai?Là
ông đồ, là những ngơừi thuê ông đồ viết chữ hay là một thời đã đi qua nay chỉ
còn “vang bóng”(chữ dùng của Nguyễn Tuân)? Dãu là gọi ai thì câu thơ cũng kết
đọng bao tiếc nuối, xót xa cho sự phôi
pha, tàn tạ của những nét đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc.Nhà thơ gọi
để tiêc nuối và gọi để thức tỉnh hãy giữ lấy những giá trị truyền thống ngàn
đời mà cha ông đã bao công bồi đắp. Tiếng gọi hồn ấy có giống với tiếng gọi đò
u hoài của ông Tú Thành Nam
vang trên sông Lấp khi xưa không?
Sử dung thể thơ ngũ ngôn và ngôn ngữ
gợi cảm, giàu sức tạo hình, Vũ Đình Liên đã khiến cho tác phẩm của mình có dáng
dấp một câu chuyện, kể vè cuộc đời một ông đò từ lúc còn được người đời trân
trọng, cảm phục tới khi bị lãng quên. Qua hình tượng ông đồ, tác giả đã bày tỏ
thật xuất sắc “lòng thương người” và “tình hoài cổ” của mình.
Tải app VNPAY nhận ngay 50.000 vào ví => Bấm vào đây
-->Kiếm tiền trên điện thoại->bấm vào đây
--> Đào coin Renec miễn phí, Bấm vào đây để kiếm tiền
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment